Quán trọ hoang thôn
Quán trọ hoang thôn
Chương 1 : NGÀY ĐẦU TIÊN
Vẫn còn nhớ buổi chiều mưa hôm đó, ngoài cửa sổ mưa khói mông lung mờ ảo, dường như mọi vật đang được nhìn thấy từ chiếc ống kính lọc ánh sáng, chỉ có thực vật là hớn hở hút lấy nước mưa, sắc xanh thẫm của những nhành cây đang lặng lẽ vươn ra. Giây phút đó, trong gian phòng cũng đang mịt mù hơi nước ẩm ướt, nước mưa không ngớt rơi xuống, đập vào cửa sổ.
Tôi một mình ngồi trước màn hình máy tính, suy nghĩ khởi đầu cho bộ tiểu thuyết tiếp theo. Đột nhiên, tiếng chuông cửa vang lên thúc bách giống như tiết tấu mưa bên ngoài khiến lòng người bất an. Tôi vốn rất ghét bị người khác làm phiền trong thời khắc này, nhưng cũng đành phải nhanh chóng ra mở cửa và nhìn thấy bốn gương mặt lạ.
Người thanh niên đi đầu thể hình rắn rỏi, da ngăm đen, hình như thường xuyên làm công việc vận động bên ngoài, trên tóc anh ta vẫn còn đọng những hạt nước mưa. Anh cẩn thận hỏi tên tôi, sau khi biết tôi là tác giả của “Hoang thôn”, những người này liền thở phào nhẹ nhõm.
Một nữ sinh nhỏ nhắn da trắng rì rầm nói: “Òa, thật không tưởng tượng nổi!”
“Không tưởng tượng nổi gì cơ?”
“Không tưởng tượng nổi nhà văn vẫn thường được nói đến lại trẻ như thế này”.
Tôi gãi gãi đầu, không biết đây có phải là khen mình không nữa.
Nữ sinh hào hứng nói: “Ôi, ở đây xem ra rất ổn, “Hoang thôn” được viết ở đây sao?”
Chàng thanh niên đi đầu nhìn cô gái một cái rồi cười nói với tôi: “Xin lỗi, chúng tôi đều là độc giả trung thành và là fan hâm mộ của anh, đặc biệt là kể từ sau khi đọc xong truyện ngắn “Hoang thôn” trên tạp chí “Chồi non”, chúng tôi có rất nhiều vấn đề muốn trực tiếp thỉnh giáo anh”.
Hóa ra là như vậy. Nhưng tôi vẫn có chút do dự, thông thường từ trước tới nay tôi chưa từng trực tiếp tiếp đãi độc giả.
Nhưng mà hãy cứ để họ vào vậy. Bốn người cẩn thận để ô ngoài cửa, trên người có chút bị ướt mưa, tôi vốn không để ý mấy, rót nước ngọt chiêu đãi những vị khách không mời mà đến này.
Cả bốn người đều đeo cặp sách, hai nam hai nữ, đều là thanh niên như tôi, chắc là vẫn đang học năm thứ nhất, năm thứ hai đại học.
Dự đoán của tôi được họ xác nhận, một cô gái cao ráo khác nói: “Xin tự giới thiệu, tôi tên là Hàn Tiểu Phong”.
Sau đó, cô ấy lại giới thiệu từng người, chàng trai dẫn đầu tên là Hoắc Cường, cô gái nhỏ người tên là Xuân Vũ, chàng thanh niên cuối cùng tên là Tô Thiên Bình. Họ đều là sinh viên năm thứ 2 và tham gia vào “câu lạc bộ sinh viên thám hiểm Robin” nổi tiếng.
Hoắc Cường vào thẳng vấn đề: “Tất cả sách và tiểu thuyết của anh chúng tôi đều đã đọc qua, sau khi đọc truyện ngắn “Hoang thôn” của anh, tất cả chúng tôi đều bị chấn động, xem đi xem lại tới mười mấy lần. Thực sự là chúng tôi không kìm nén được nữa, thế nên cố ý tới đây thăm hỏi, muốn mời anh giải đáp cho chúng tôi một số vấn đề”.
Tôi ngán ngẩm lắc đầu, điều lo lắng nhất sau khi truyện ngắn được đăng chính là điều này đây.
“Xin lỗi, sao các anh lại biết địa chỉ của tôi?”
“À cái này…” Hoắc Cường bối rối gãi gãi đầu, sau đó nói ra một cái tên.
Hóa ra là anh chàng đó! Dám tiết lộ địa chỉ của tôi cho mấy sinh viên này, lần sau gặp lại hắn nhất định phải mắng cho vài câu.
Nữ sinh viên là Xuân Vũ lên tiếng: “Xin lỗi, đây là do chúng tôi bám riết không buông, anh ấy bị ép đến nỗi không còn cách nào khác đành phải nói cho chúng tôi thôi”.
Được rồi, anh chàng này nhất định là thấy mấy cô sinh viên xinh đẹp, không cưỡng lại được sự hấp dẫn nên đã bán đứng cả bạn bè đây.
“Được thôi, các bạn rút cuộc có vấn đề gì?”
chàng trai trầm ngâm tên là Tô Thiên BÌnh cuối cùng cũng lên tiếng: “Trước tiên, tôi rất thích truyện ngắn này của anh, tôi cảm thấy “Hoang thôn” thực chất quá kỳ lạ và đặc biệt, thậm chí mỗi câu chữ đều là một cái bẫy, một câu đố chờ đợi được giải đáp. Dưới bề mặt câu chuyện của Hoang thôn, nhất định còn ẩn chứa những bí mật khác, đúng không? Có phải là do nguyên nhân số lượng trang? Tôi cảm thấy còn rất nhiều chuyện anh vẫn chưa tiết lộ cho chúng tôi”.
“Có phải anh đang chuẩn bị viết một truyện dài về Hoang thôn không?” Hàn Tiểu Phong đột nhiên chêm vào một câu.
Đối với những vấn đề này của họ, tôi thật sự không biết phải trả lời bằng cách nào, đành phải qua loa mấy câu. Nhưng mấy sinh viên này vẫn không chịu buông tha, truy vấn tôi như súng liên thanh.
Mưa rơi ngoài cửa sổ càng lúc càng to, bóng tối bao trùm lấy căn phòng, rất dễ để người ta sản sinh ra cảm giác sai lầm nào đó, dường như bốn người này đều từ một thế giới khác chạy tới đây.
Cuối cùng, Hoắc Cường mất kiên nhẫn nói: “Được rồi, bây giờ xin anh trả lời một vấn đề, Hoang thôn rút cuộc có tồn tại hay không?”
“Tôi đã nói mấy lần rồi đấy thôi, đó chỉ là ở trong tiểu thuyết mà thôi, xin đừng coi đó là thật”.
Thấy dáng vẻ mộng mị đáng thương của cô gái, đến cả tim gan bằng sắt đá cũng không thể nào kìm lòng được. Có lẽ người bạn của tôi cũng vìthế mà “bán rẽ” tôi cũng nên, dù sao thì chúng tôi cũng đã mềm lòng. Tôi mím mím môi, miễn cữong gật gật đầu: “Được rồi, tôi thừa nhận, Hoang thôn thực sự có thật”.
Giây phút câu nói này vừa dứt lời, một tia sét đột nhiên lóe sáng ngang bầu trời, kéo theo sau một tiếng sấm đinh tai nhức óc, hình như đến cả kính cửa sổ cũng rung bắn cả lên. Lẽ nào đây là điềm báo không may mắn? Lòng tôi nặng trĩu.
Không, tôi không thể nói như thế. Hoang thôn không nên tồn tại. Đáng tiếc, lời nói thốt ra không thể thu lại được, bây giờ nghĩ lại thật là nguy hiểm.
Lúc đó, nghe xong câu nói này của tôi, cả mấy sinh viên đều hưng phấn khác thường, chỉ có Tô Thiên BÌnh là vẫn duy trì sự trấn tĩnh, cậu ấy hỏi: “Thế thì xin anh hãy nói cho tôi biết, rút cuộc Hoang thôn ở đâu?”
“Tôi đã từng nói trong tiểu thuyết rồi, Hoang thôn ở giữa biển và nghĩa trang”.
“Cái này bọn tôi đều biết. Bây giờ, chúng tôi muốn biết địa chỉ chính xác của Hoang thôn, trong tiểu thuyết anh nói là tại thị trấn Tây Lãnh, thành phố K, tỉnh Chiết Giang, vậy thì thành phố K là ở chỗ nào?”
“Các bạn rút cuộc muốn làm gì?”
Hoắc Cường quyết đoán nói: “Chúng tôi muốn đến Hoang thôn”.
Câu “muốn đến Hoang thôn” vừa dứt lời, ngoài cửa sổ tiếng sét lại nổ lên đinh tai nhức óc, theo phản xạ, cô gái tên là Xuân Vũ ôm chặt lấy Hàn Tiểu Phong bên cạnh.
Tôi cũng ngay người ra. Bên ngoài cửa sổ trắng xóa một trời mưa khói. Kỳ lạ, mùa này vốn không thể có mưa gió sấm chớp như thế này.
Cả bốn sinh viên đều chằm chằm nhìn tôi, họ đang đợi câu trả lời của tôi.
Thế này càng khiến tôi bồn chồn bất an, dự cảm kỳ lạ như nước mưa quất vào lòng, giống như lời nguyền rủa vang vọng mãi trong đầu. Tuyệt đối không thể để họ mở cánh cửa của quỷ sa tăng.
Tôi trả lời chắc như đinh đóng cột: “Không, tôi không thể nói với các bạn!”
Bốn sinh viên vốn đã chờ đợi rất lâu lập tức giống như một quả bóng xì hơi, đặc biệt là cô gái tên là Xuân Vũ dường như sắp khóc.
“Tại sao?” Hàn Tiểu Phong hiển nhiên là một người có tính cách vội vàng, cô ấy lập tức xông tới hỏi tôi.
“Không tại sao cả, có chăng các bạn không thể đến Hoang thôn”.
Hoắc Cường lắc lắc đầu: “Không, chúng tôi đều đã chuẩn bị hết rồi, tất cả đồ dùng để đi du lịch dã ngoại và thám hiểm đều đã đầy đủ, chỉ còn thiếu duy nhất địa chỉ cụ thể. Bất luận là anh ủng hộ hay không, kế hoạch đến Hoang thôn thám hiểm của chúng tôi tuyệt đối không thể thay đổi”.
“Hủy bỏ kế hoạch đi, kế hoạch thế này không có ý nghĩa gì cả. Tôi khuyên các bạn nên quan tâm nhiều hơn đến UFO hoặc là khu tam giác Quỷ, đừng để hoang tưởng áp đảo lý trí”.
“Tam giác Quỷ xa quá, còn Hoang thôn lạii gần ngay cạnh chúng tôi”. Người nói câu này là Tô Thiên Bình, cậu ta cũng có chút kích động: “Anh biết không? Tôi và Xuân Vũ chính vì đọc truyện của anh, sau khi say mê câu chữ của anh mới tham gia vào câu lạc bộ thám hiểm. Anh có biết chúng tôi tốn bao nhiêu công sức mới tìm được anh không? Hôm nay lại đội mưa to gió lớn thế này đến tận nơi thăm hỏi, anh thế nào cũng không được để những độc giả trung thành như chúng tôi thất vọng đâu đấy”.
Các bạn độc giả của tôi, tôi làm sao có thể để các bạn thất vọng? Nhưng về việc Hoang thôn đó, nhất quyết không có đường rút lui, tôi bắt buộc cứng đầu nói: “Các bạn về đi, tôi sẽ không bao giờ nói Hoang thôn ở đâu đâu”.
Hoắc Cường lạnh lùng nói: “Thật là rất đáng tiếc. Nhưng kể cả anh không nói cũng không sao, bởi vì chỉ cần cái địa danh Hoang thôn đó thực sự tồn tại, thế nào chúng tôi cũng sẽ tìm ra bằng được”. Nói xong, cậu ta bèn đứng phắt dậy vội vàng bỏ đi, những sinh viên khác cũng theo sau Hoắc Cường.
Nữ sinh tên là Xuân Vũ là người đi sau cùng, đến cửa, cô ấy quay đầu lại nhìn tôi, buồn bã nói: “Tôi thật sự rất thất vọng”.
Tôi đành phải bất lực thốt lên một tiếng: “Bên ngoài sét đánh, các bạn cẩn thận”.
Nhìn theo bốn vị khách không mời mà đến dần mất hút trong hành lang, trong lòng tôi cũng trào dâng cảm giấc hối hận, có nên làm như vậy không? Họ đều là độc giả trung thành của mình, tôi nên cố gắng hết giúp đỡ họ, nhưng Hoang thôn… Không, không nên nhắc tới Hoang thôn nữa.
Vốn dĩ cho rằng, sự việc như vậy là kết thúc rồi. Nhưng vào chính buổi tối sau khi bốn sinh viên bỏ đi, sự việc càng kỳ lạ hơn đã xâm nhập vào cuộc sống của tôi.
Vào lúa nửa đêm, bên ngoài đã không còn sấm chớp, tiếng mưa tí tách rơi trên cửa sổ giống như ngón tay của người con gái gõ nhịp.
Tôi mở email như mọi khi, bỗng nhiên lại nhận được rất nhiều thư liên quan đến Hoang thôn, thư của người hâm mộ cũng có, người chửi rủa cũng có. Nhưng trong đó có một tiêu đề thư đã thu hút sự hứng thú của tôi: “Anh đã để sót cái giếng đó”.
Lúc nhìn thấy tiêu đề này, mắt tôi bất giác giật giật, cái hang hình tròn tối sâu đó dường như đang hiện lên trước mắt.
Giếng?
Biểu tượng con chuột của tôi như bị cái tiêu đề đó kích phải, trong chớp mắt nó bỗng trơn tuồn tuột mất hết phương hướng. Tôi vội vàng huy động hết các ngón tay phải, cuối cùng cũng tìm thấy con chuột nhát gan này, nó bị cái tiêu đề này làm cho hoảng sợ ư?
Kích vào tiêu đề “Anh đã để sót cái giếng đó”, một đoạn chữ nhảy ra trước mắt tôi.
“Chào anh: Anh chính là tác giả của “Hoang thôn” nhỉ, nếu như anh cho rằng bức thư này phiền nhiễu thì anh hãy xóa nó đi. Chiều hôm nay, tôi mới xem xong truyện ngắn “Hoang thôn”. Mong lượng thứ, tôi bây giờ với danh nghĩa là một người si tình chứ không phải là danh nghĩa của độc giả để bình luận truyện của anh. Tôi nói với anh, trong truyện của anh đã để sót một thứ rất quan trọng, không biết là anh cố ý giấu giếm hay là trí nhớ quá kém, giả định nếu như anh thật sự đã từng đến căn nhà cổ Tiến Sỹ Đệ ở Hoang thôn, hoặc là nghe những lời đồn thổi, chắc là vẫn phải nhớ miệng giếng trong sân sau ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ chứ? Anh có thể không trả lời. Xin lỗi đã làm phiền. Một độc giả”
Đọc xong email kỳ lạ này, tôi ngây người ra mất mấy phút, những câu chữ trên màn hình dường như nhảy vọt qua mắt tôi, trực tiếp tiến thẳng vào trong não.
Bàn tay đang nắm lấy con chuột do dự một lúc, vẫn không nhấn vào nút xóa. Tôi từ từ nhắm mắt lại.
Giếng?
Trong giây phút nhắm mắt lại, chiếc độc đen tối om lại hiện lên.
Tôi cẩn thận chui người vào trong giếng, chiếc giếng cổ nhỏ hẹp, sâu hút hút không nhìn thấy đáy, nó dường như chìm đắm trong bóng tối đặc quánh. Đột nhiên, vài gợn sóng xuất hiện dưới đáy giếng, những gợn sóng nước nhẹ nhàng dập dềnh phản xạ ánh sáng từ trên miệng giếng. Phút chốc, tôi đã ở trong sóng nước dưới đáy động, phát hiện thấy bóng của khuôn mặt mình.
Tôi run rẩy nhìn bóng mình dưới đáy giếng, giống như đang đối diện với giả thuyết “hố đen” của Einstein, hố đen vũ trụ hàng triệu năm ánh sáng đó đang hút mọi vật chất bằng sức mạnh vô biên, và thời gian lại bị méo mó xung quanh nó. Đúng thế, đối diện với miệng giếng cổ này, dường như tôi cũng cảm thấy có một hơi thở từ từ bay lên, nó thông qua thành giếng chật hẹp ẩm ướt giống như con đường sinh sản lắt léo của một đứa trẻ sơ sinh, từ đấy giếng xộc thẳng lên mặt, lên mũi rồi theo đường hô hấp tràn vào lồng ngực tôi. Tôi không sờ thấy nó, nhưng có thể thamlam hít thở nó, tôi biết nó đang ở đây. Lúc này, nó từ trong giếng bay ra…
Nó là ai?
Tôi bỗng nhiên mở trừng mắt, miệng giếng tối om, sâu hun hút đó biến mất, trước mặt vẫn là màn hình máy tính. Tôi hít một hơi thật sâu. Cảnh tượng vừa xuất hiện ban nãy đã khắc sau trong trí nhớ, thậm chí không biết nên dùng khủng hoảng hay là buồn rầu để hình dung tâm trạng lúc đó.
Nhưng tôi biết mình không nên mở miệng giếng đó ra, bởi vì xảy ra chuyện gì tiếp theo tôi cũng không sao biết được. Việc tôi có thể làm lúc này chính là phải che dấu sự tồn tại của miệng giếng đó.
Email kỳ lạ này nói rất đúng, giếng cổ đích thực tồn tại ở Hoang thôn, chính tại sân sau của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, chỉ là tôi không đưa vào trong “Hoang thôn” mà thôi.
Do tôi vô cùng sợ hãi miệng giếng đó, sợ hãi tới mức không thể tưởng tượng được nếu đưa nó vào trong truyện ngắn mà tái hiện trước mắt vô số độc giả thì sẽ xảy ra hậu quả như thế nào.
Không! Tôi không thể tưởng tượng được.
Hiện tại, tôi đang đối diện với email kỳ lạ này, không hiểu sao đối phương lại biết về miệng giếng đó, hoặc chỉ đơn giản là họ nghe đồn thổi mà thôi?
Tuy đối phương bảo tôi có thể không trả lời, nhưng tôi nghĩ vẫn cứ trả lời sẽ tốt hơn, ít nhất tôi cũng muốn biết đối phương rút cuộc là ai? Là người rỗi hơi hoang tưởng ra miệng giếng cổ để dọa tôi hay là thật sự có mối quan hệ nào đó với Hoang thôn?
Ngẫm đi ngẫm lại, tôi vẫn cứ trả lời email cho đối phương.
“Xin chào: Tôi không biết phải xưng hô thế nào với bạn, cũng không biết bạn rút cuộc là ai. Nhưng bây giờ tôi bắt buộc phải thừa nhận, sân sau của Tiến Sỹ Đệ có một miệng giếng cổ, xin hỏi bạn làm thế nào mà biết được miệng giếng đó? Nhất định phải trả lời cho tôi nhé”.
Gửi email này xong, tôi tắt máy tính, thở dài. Mưa tiếp tục rơi, giống như thủy triều đang dần rút lui trên bờ biển Hoang thôn. Tối hôm đó tôi hoàn toàn không ý thức được rằng chỉ vì hai cái email đó mà cuộc sống của mình đã biến đổi to lớn.
NGÀY THỨ HAI
Quả nhiên, đến đêm ngày thứ hai, hòm thư điện tử của tội nhận được thư trả lời của đối phương.
“Chào anh: Tôi đã nói anh có thể không trả lời thư. Nhưng dù sao thì anh cũng đã thừa nhận miệng giếng đó tồn tại, vậy tại sao trong tiểu thuyết lại sót mất nó? Còn về việc tại sao tôi lại biết về miệng giếng đó, xin lỗi, tôi không thể trả lời anh câu hỏi này. Thẳng thắn mà nói, sau khi xem xong truyện ngắn “Hoang thôn” của anh, tôi có một cảm giác, nếu như anh không cố ý giấu giếm điều gì đó, thì anh căn bản vẫn chưa tới Hoang thôn. Bởi vì những chỗ sai sót trong truyện ngắn này của anh quá nhiều, đợi tới khi nào tôi nhớ ra, tôi sẽ chỉ ra cho anh thấy từng chỗ một. Nếu như tôi vẫn chưa nghĩ ra, thì coi như anh gặp may. Nói cho tôi biết, anh có phải thật sự đến Hoang thôn rồi không?”
Cuối thư không hề có tung tích, nhìn những câu chữ hùng hổ hăm dọa trong email, tôi thực sự không thể tưởng tượng ra nổi hình dạng của đối phương.
Sau những giây phút do dự, tôi đã trả lời thư.
“Xin chào:
Bạn là ai? Tôi cảm thấy sự trao đổi của chúng ta hiện nay giống hệt như trẻ con đang chơi trốn tìm trong một căn phòng lớn, cả hai người đều tin rằng đối phương không thể đoán được chỗ ở của mình, còn bản thân mình lại có thể đoán chính xác nơi ẩn náu của đối phương ở đâu. Nói lại lần nữa, “Hoang thôn” chỉ là một truyện ngắn hơn hai vạn chữ mà thôi. Truyện là gì? Tôi cảm thấy truyện là mộng, tất cả các truyện đều là lời nói trong mơ của các nhà văn. Và bất luận là mộng đẹp hay ác mộng, bất luận giấc mộng đó xem ra có chân thực đến mức nào thì giữa mơ và cuộc sống hiện thực của chúng ta cũng có khoảng cách, thế nên chúng ta mới thích nằm mơ, mới thích tiểu thuyết. Được rồi, bất luận bạn có tin hay không, thực tế là tôi đã tới Hoang thôn. Nhưng Hoang thôn trong truyện với Hoang thôn trong hiện thực là hai thế giới hoàn toàn khác nhau, nếu không thì cũng không gọi đấy là truyện rồi. Cuối cùng, tôi có một đề nghị nho nhỏ, bạn có thể lưu lại tung tích của mình không?”
Sau khi thư trả lời được gửi đi, tôi tiện tay tắt máy tính, ngồi suy tư rất lâu trên ghế.
Kể từ khi truyện ngắn “Hoang thôn” được đăng trên tạp chí “Chồi non”, đầu óc tôi luôn hỗn loạn. Kỳ lạ, tại sao đến giờ vẫn mãi chưa nhớ ra được, mấy tháng trước lúc tôi quyết định viết truyện ngắn này, tôi đã nghĩ gì. Ký ức trong phút chốc vỡ vụn, làm thế nào cũng không thể ghép lại được. Tôi dốc hết sức lực lục lại ký ức cho tới khi nhớ lại buổi chiều đông giá rét đó.
Đúng vậy, tôi còn nhớ hôm đó nghe nói là sắp có tuyết rơi, ngẩng mặt nhìn lên trời, chờ đợi những bông tuyết tung bay. Xung quanh toàn là tiếng người cười nói ồn ào, lại còn phảng phát một mùi xưa cũ hư hại không biết là từ mấy trăm năm trước. Đúng rồi, hôm đó tôi đã đến chợ sách cũ, đứng giữa lối đi trong chợ, hai bên toàn là những sạp thu mua sách cũ.
Kể với các bạn nhé, tôi từ trước đến nay rất thích sưu tập sách, đặc biệt là những bộ sách cổ, không thể nói là sưu tập để đầu tư, mà đơn thuần chỉ là yêu thích cổ vật mà thôi, nói một cách hay ho thì được coi là “cứu vớt di sản văn hóa”.
Tuyết vẫn chưa buồn rơi, tôi cúi đầu đi sang bên cạnh, dừng lại trước một sạp chuyên bán cổ phiên bản gốc. Trong một chồng sách cổ dày cộp, có một quyển sách cũ tên là “Cổ gương u hồn ký”. Tên cuốn sách độc đáo đó lập tức thu hút tôi lật từng chương của nó ra.
Tác giả lấy bút danh là “Hoang thôn cuồng khách”. Được xuất bản từ đời Càn Long năm 43 tại nhà sách Cô Sơn Hàng Châu. Những trang trong sách vẫn còn có mấy dấu sưu tập, trừ trang sách bị ố vàng ra, không có bất cứ vết tích rách nát hay bị mối một nào, bìa và đáy sách cũng khá hoàn chỉnh. Đời Càn Long năm 43 tới nay cũng đã hơn hai trăm năm vậy mà quyển sách này có thể bảo tồn như thế này quả thật rất ổn.
Chủ sạp ra giá rất đắt, ông ta coi quyển sách này đúng là cổ vật rồi, thực tế cứ cho là bán đấu giá đi chăng nữa thì cũng chỉ đáng mấy trăm tệ mà thôi. Nhưng quyển sách này quả thực rất ổn, không chỉ bảo tồn hoàn chỉnh, quan trọng hơn là chữ nghĩa bên trong, tôi vừa dở được vài trang là đã có một cảm giác rất đặc biệt.
Đang trong lúc do dự vì quyển sách này, một hạt ươn ướt bỗng nhiên rơi vào lòng bàn tay tôi rồi từ từ tan thành nước.
Là bông tuyết! Tôi kinh ngạc ngẩng đầu lên, quả nhiên tuyết đang rơi trong không trung. Tôi không thể kìm nén được sự kích động trong lòng, nhân cơ hội bỗng chốc vui mừng sảng khoái tôi liền rút tiền ra trả cho chủ sạp rồi phấn khởi đem quyển “Cổ gương u hồn ký” vồn không chủ định mua mang về nhà.
Khi về đến nhà thì tuyết đã ngừng rơi. Tuy vẫn còn xót tiền nhưng ít ra tôi cũng là chủ nhân mới của quyển sách cổ này. Tôi rất nhẫn nại đợi đến buổi tối, trong phòng chỉ mở một chiếc đèn vàng nhỏ giống như cổ nhân trước đây thường đốt nến. Và rồi, tôi cung kính mở quyển “Cổ gương u hồn ký” ra.
Hóa ra đây là quyển sách thể loại nhật ký, phân thành mấy chục truyện ngắn, không phân biệt được là tiểu thuyết hay sản văn, trong đó hầu hết ghi chép lại những giai thoại khắp vùng Chiết Giang, cảm giác phong cách có chút giống “Duyệt vị thảo đường bút ký” của Kỉ Hiểu Lam.
Trang đầu tiên trên sách ghi là “Cổ gương u hồn ký”, nói về một người con gái triều Minh sau khi chết oan, oan hồn ở lại trong gương cổ không siêu thoát, người đời sau soi gương có thể nhìn thấy khuôn mặt lòe loẹt của cô gái năm nào.
Câu chuyện này khiến tôi hít phải một hơi buốt lạnh, càng khiếp sợ ở chỗ còn có cả tranh chân dung minh họa: trong một gian phòng có tấm gương đồng cổ, tuy trước gương không có bất cứ ai nhưng trong gương lại hiện lên hình một cô gái đang chải tóc.
Chữ viết theo hàng dọc xem ra đọc rất mỏi mắt, tôi tốn khá nhiều thời gian mới đọc hết được trăng đầu tiên. Nhưng không thể dừng lại được nữa, dưới ánh đèn leo lắt, tôi đọc từng trang từng trang, hoàn toàn chìm đắm trong thế giới kỳ dị do “Hoang thôn cuồng khách” thêu dệt nên, đọc một mạch cho đến chương cuối cùng “Đàm đạo quái dị về Hoang thôn”.
Câu chuyện cuối cùng vô cùng độc đáo, kể về một thư sinh người Phúc Kiến đến Bắc Kinh dự thi, mùa đông năm đó vùng núi phía đông Chiết Giang tuyết rơi rất to, đường đi bị tuyết phù dày hiếm thấy, thư sinh không may đi lạc đường, đến một nơi bên bờ biển gọi là “Hoang thôn”.
Lúc này, thư sinh vừa đói vừa rét, anh đi vào một ngôi nhà to nhất trong Hoang thôn. Chủ nhà tự xưng là “Hoang thôn cuồng khách”, vốn là một người đàn ông trung niên ngoài 40 tuổi. Chủ nhân thân thiện bất ngờ với thư sinh, sắp xếp cho anh một bàn tiệc thịnh soạn và một căn phòng rộng rãi thoải mái.
Hoang thôn tối hôm đó tuyết bay trắng trời, trong căn nhà cổ, thư sinh đang đàm đạo cùng chủ nhả thì bóng một phụ nữ bỗng lướt qua cửa. Thư sinh kinh ngạc bước ra ngoài, chẳng có ai cả. Sau đó, thư sinh cũng về phòng đi ngủ.
Nửa đêm, âm thanh kỳ dị đã khiến thư sinh bị tỉnh dậy. Anh lần theo âm thanh đó đi đến cửa phòng bên cạnh rồi dùng nước bọt chọc rách cửa sổ giấy thì phát hiện ra một cô gái xinh đẹp đang chải tóc trong phòng.
Chàng thư sinh vô cùng kinh ngạc, từ bé tới lớn anh chưa từng gặp một cô gái nào xinh đẹp nõn nà như vậy. Không kìm chế được mình, anh nhẹ nhàng đi vào phòng cô gái.
Cô gái tỏ ra không hề ngạc nhiên mà con tiếp đãi chàng trai uống trà. Thư sinh đứng trước mỹ nhân, tâm trạng bỗng rối bời rồi biểu lộ tình cảm của mình với người đẹp, anh còn nói mình chưa cưới vợ. Mỹ nữ không hề cự tuyệt, nói rằng mình vừa nghe lỏm câu chuyện của thư sinh và chủ nhà, cô tự cảm nhận thư sinh là một nhân tài của đất nước và âm thầm hết lòng ngưỡng mộ anh. Thư sinh vô cùng mừng rỡ, đêm đó cô gái đã chăm sóc anh trong phòng.
Hôm sau tỉnh dậy, thư sinh phát hiện mỹ nhân đã đi đâu từ sớm, đến cả chủ nhân của ngôi nhà cũng không thấy tung tích. Lúc này tuyết cũng đ
ã ngừng rơi, thư sinh chẳng còn cách nào khác đành phải rời khỏi Hoang thôn.
Khi thư sinh đi đến thị trấn Tây Lãnh cách Hoang thôn khoảng mấy chục dặm, anh liền đứng lại trước một cái ao vẫn chưa đóng băng.
Á! Thư sinh hét lên một tiếng, hóa ra anh nhìn thấy bóng mình đang soi rọi dưới mặt ao, hình dạng vô cùng đáng sợ, khuôn mặt hoàn toàn không có sắc máu, trông giống như một xác chết.
Thư sinh sợ hãi đến nỗi hồn xiêu phách lạc, kế tiếp là phát hiện ra trên cổ mình có một vết thương nhỏ, giống như bị dơi cắn. Anh vội vàng lấy dao rạch lên da của mình, không một giọt máu nào chảy ra.
Hóa ra máu của anh đã bị hút sạch.
Đến khi thư sinh hiểu ra mọi chuyện thì đã ngừng thở, ngã nhào ra đất mà chết.
Sau đó, người dân thị trấn Tây Lãnh đi qua chiếc ao ai ai cũng phát hiện ra một thanh niên dáng vẻ thư sinh đang nằm ven đường cơ thể anh đã biến thành xác khô.
Câu chuyện này tới đây là kết thúc, ở trang cuối cùng còn có một bức tranh minh họa vẽ một thư sinh trẻ tuổi nằm bên giường, trên cổ có vết thương nhỏ còn mỹ nữ tuyệt sắc giai nhân kia đang ngồi cạnh anh ta, khóe miệng dường như vẫn còn cả vệt máu tươi.
Đột nhiên, tôi cảm thấy trang cuối cùng hình như biến thành có màu sắc, vệt máu trên khóe miệng cô gái đỏ rực, dường như muốn chảy ra từ trang sách đó. Tôi vội vàng gập sách lại, lạnh toát sống lưng.
Đã tờ mờ sáng rồi, rút cuộc cũng đã đọc xong cuốn kỳ thư mang tên “Cổ gương u hồn ký”. Để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc nhất, dĩ nhiên là trang cuối cùng “Đàm đạo quái dị về Hoang thôn”.
Đáng sợ nhất chính là tác giả “Hoang thôn cuồng khách” của quyển truyện này cuối cùng lại xuất hiện trong câu chuyện “Đàm đạo quái dị về Hoang thôn”, hơn nữa lại là chủ nhân của ngôi nhà khủng khiếp đó. Không biết câu chuyện trong quyển nhất ký này thật giả thế nào, càng không biết cái vị “Hoang thôn cuồng khách” này là thần thánh phương nào, nhưng chỉ cái tên của anh ta đã khiến tôi cảm thấy không kém cạnh gì “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh.
Đương nhiên, vị “Hoang thôn cuồng khách” này đến từ Hoang thôn, vậy thì Hoang thôn có thật sự tồn tại không?
Chính trong giây phút đó, tôi quyết tâm nhất định phải tìm được Hoang thôn.
Quyển sách “Cổ gương u hồn ký” vẫn nằm trong ngăn kéo của tôi. Tôi không dám đọc lại nó, chỉ hy vọng có thể dần dần quên nó đi. Bây giờ nghĩ lại, nếu như hôm đó tôi không tới chợ sách cũ, nếu như không phát hiện ra cuốn nhật ký kỳ dị của vị “Hoang thôn cuồng khách” này, thì sau này có thể có những việc không thể lí giải nổi, hay là có thể làm thay đổi vận mệnh của biết bao nhiêu con người như vậy không?
Có lẽ, nhân sinh chính là do vô số những “xác suất” tạo thành.
NGÀY THỨ BA
Buổi sáng, tôi nhận được email hồi âm của nhân vật thần bí đó.
“Chào anh:
Anh thông minh hơn tôi tưởng một chút. ‘Hai đứa trẻ chơi trốn tìn trong căn phòng lớn?’ Ví von của anh rất thú vị, nhưng không được chuẩn xác lắm. Xác thực hơn phải là một con chuột và một con mèo chơi trốn tìm trong căn phòng lớn, tôi chính là mèo, còn anh là chuột. Được rồi, tôi đã từng nói trong truyện của anh có rất nhiều sai sót, bây giờ tôi nghĩ được ra một ít rồi, ví dụ như ba câu chuyện cổ về Yên Chi. Trong câu chuyện đầu tiên, anh nói là chồng của Yên Chi là Âu Dương An vì phải đi đánh trận nên mới rời khỏi Hoang thôn. Thực ra không phải như vậy, mà do Hoang thôn bị bọn cướp biển đột kích, Âu Dương An bị cưỡng ép bắt cóc ra ngoài biển. Từ đó Yên Chi chỉ có thể một mình trong căn phòng trống vắng đợi chồng quay trờ về. Vài năm sau, người ta phát hiện một con thuyền của bọn cướp biển đang trôi dạt trên biển, tất cả những người trên thuyền đều đã chết và biến thành những bộ xương trắng toát, đây chính là “con thuyền ma” mà mọi người vẫn hay gọi. Chúng chính là toán cướp biển đã cướp sách Hoang thôn thủa nào, văn tự ghi lại trên thuyền cho thấy, sau khi thuyền cướp biển đi khỏi Hoang thôn không bao lâu, những tên cướp biển này chết dần chết mòn từng tên một, cuối cùng chỉ sót lại một người, đó chính là Âu Dương An, người mà bọn chúng đã bắt cóc. Nhưng trên thuyền lại không phát hiện thấy xác và quần áo của Âu Dương An. Anh ta đã mất tích trên con thuyền ma như một điều bí ẩn.
Câu chuyện thứ hai, anh kể rằng linh hồn của Yên Chi và Âu Dương An tương ngô vào đêm tết trùng dương, kết quả là sinh hạ được một cậu con trai. Anh nói sai rồi, vào năm thứ 3 mà Yên Chi chia li cùng chồng, cô phát hiện ra một người đàn ông bị chết đuối bên bờ biển, hóa ra chính là Âu Dương An, chồng cô. Yên Chi đem xác chồng về nhà, hàng đêm lấy máu của mình bôi lên môi chồng, cuối cùng anh chồng đã sống lại. Nhưng, tất cả mọi người đều cho rằng Âu Dương An đã chết, vì thế anh chỉ có thể âm thầm trốn đi, giống như một người chồng mà, sau này cùng Yên Chi sinh hạ một cậu con trai.
Câu chuyện thứ ba, anh kể rằng đào được một tấm bia khắc trong mộ phần. Thế anh có biết kết cục của những kẻ đào mộ đó không? Họ mang những văn vật đào được từ trong mộ lên một chiếc xe khách để rời khỏi Chiết Giang, kết quả lúc ra khỏi tỉnh ngoài thì xe gặp tai nạn, điều mà khiến người ta không thể tưởng tượng được ở chỗ, tất cả các hành khách khác trên xe đều không hề gặp nguy hiểm, chỉ có duy nhất ba tên đào trộm mộ mất mạng.
Nghe tôi nói bao nhiêu là chuyện như vậy, anh nhất định rất ngạc nhiên đúng không?
Dĩ nhiên, bản thân anh không ý thức được, thực ra anh sớm đã mắc sai lầm rồi, anh cơ bản không nên viết truyện ngắn ‘Hoang thôn’ này, càng không nên đăng truyện ngắn này trên tạp chí để bao nhiêu người biết được sự tồn tại của Hoang thôn. Anh nhất định sẽ hỏi tôi tại sao, thật đáng tiếc tôi cũng không biết tại sao. Tóm lại là anh và tồi đều không thể tưởng tượng được, truyện ngắn này sẽ gây ra hậu quả thế nào.
Nếu như anh nhất định muốn tôi để lại tung tích khi thì tung tích của tôi là Nhiếp Tiểu Sảnh”
.
Nhiếp Tiểu Sảnh? Tôi đột nhiên cười ngớ ngẩn một lúc, sao u hồn xinh đẹp trong “Liêu trai chí dị” lại chạy ra đây gừi email cho tôi? Còn nữa, tại sao tôi luôn cảm thấy ba câu chuyện mà cô ta hoặc anh ta so với “Hoang thôn” của tôi càng giống tiểu thuyết?
Đại khái cô ta hoặc anh ta cũng đang cùng tôi thêu dệt câu chuyện thì phải, tôi đã từng đăng lên mạng một chủ đề bàn luận về ba câu chuyện tại Hoang thôn thời cổ đại.
Thế giới mà chúng ta nhìn thấy, những việc mà chúng ta nghe thấy rút cuộc là chân thật hay là hư cấu? Cũng một chuyện từ miệng của nhiều người khác nhau rút cuộc có thể xuất hiện bao nhiêu “ảnh trong gương” đây? Những câu chuyện mà chúng ta nghe thấy, thực ra không phải là thực chất của sự vật, mà là cái bóng của sự vật phản chiếu ra những hình khác nhau. Ví dụ, những chữ cái chúng ta nhìn thấy trong gương đều là ngược, nếu như thực tế của chữ cái vốn dị ngược lại, thì trong gương sẽ phản chiếu lại hình dáng đúng, vậy thì chúng ta nên hay không nên cho rằng những gì bản thân mình nhìn thấy chính là thực tế? Nếu như vậy thì thực thể và hình phản chiếu sẽ trở nên lu mờ, ai trong chúng ta cũng không thể phân biệt rõ ràng. Tôi nhắc đến ba phiên bản khác nhau của một câu chuyện và mỗi phiên bản của câu chuyện đều có quan hệ mật thiết với người kể. Đương nhiên, phiên bản cuối cùng của câu chuyện là bia mộ của người chết. Mặc dù tôi đã từng nói rằng người chết không nói dối nhưng chỉ cần chúng ta suy nghĩ sâu xa một chút thì lẽ nào người chết không nói dối sao? Đến đây chúng ta phát hiện, hoặc là vẫn tồn tại phiên bản thứ tư, phiên bản thứ N, còn những người đọc truyện như chúng ta lại giống như đang đứng trước vô số những tấm gương trong căn phòng mê cung, đứng trước một tấm gương chúng ta đều tự mình cho rằng bản thân đang nhìn thấy sự thật. Nhưng nếu như soi hết tất cả số gương đó, có lẽ chúng ta sẽ phát điên.
Biết đâu vẫn còn có nhiều hơn nữa những phiên bản kỳ dị xuất hiện. Nhưng bây giờ đối với người tự xưng là “Nhiếp Tiểu Sảnh”, tôi càng lúc càng hứng thú.
Tôi lập tức trả lời email cô ấy hoặc anh ấy.
“Nhiếp Tiểu Sảnh:
Cho dù tôi xưng hô với bạn như vậy, nhưng tôi không tin là bạn từ Chùa Lan Nhược chạy ra, bạn phải biết rằng tôi không phải là Ninh Thái Thần(1), mà là Yến Xích Hà(2) trừ yêu diệt quỷ.
Ngoài ra, bạn nói mèo bắt chuột tôi không phản đối, nhưng tại sao bạn nhất định phài làm mèo, tôi làm chuột nhỉ? Tôi thấy phải ngược lại mới đúng.
Tôi hy vọng bạn chỉ là đang sáng tác truyện hoặc là đang viết một bộ tiểu thuyết, nếu như đúng như vậy, tôi nghĩ tôi có thể ủng hộ bạn. Nhưng nếu như bạn vẫn tiếp tục giả mạo thần thánh ma quỷ để dọa nạt tôi thì tôi sẽ đưa email của bạn vào địa chỉ từ chối nhận thư.
Tùy bạn hồi âm hay không”.
Sau khi email này được gửi đi, tôi cảm thấy thanh thản hơn mấy ngày trước một chút, phải biết rằng bình thường tôi sẽ không nói chuyện như vậy.
“Nhiếp Tiểu Sảnh?”
Tôi bất giác khẽ bật cười.
NGÀY THỨ TƯ
Hôm nay tôi vừa mở hòm thư điện tử ra là đã bắt đầu tìm kiếm email của “Nhiếp Tiểu Sảnh”. Nhưng tôi không phát hiện ra bất cứ hồi ôm nào của người ấy, thôi cứ vậy đi, có lẽ đối phương chỉ trêu chọc tôi mà thôi.
Tôi đã từng nói mình đang viết một bộ tiểu thuyết mới, mỗi khi viết tiểu thuyết tôi đều phải tìm kiếm rất nhiều tư liệu, chính vì vậy sau khi viết xong một cuốn tiểu thuyết, kiến thức của tôi cũng đã tăng lên rất nhiều. May mà tôi sử dụng Google rất thành thạo, thế nên hầu hết tư liệu đều có thể tìm kiếm trên Google, đột nhiên có người gọi tôi trên QQ(3), đây là một số QQ hoàn toàn mới, nickname càng làm tôi giật bắn mình: “Nhiếp Tiểu Sảnh”.
Có khi lại gặp ma rồi cũng nên? Thấy ngay “Nhiếp Tiểu Sảnh” đang ở trên mạng nói với tôi: Tôi biết anh đang trên mang, mau hiển thị đi.
Tôi lắc lắc đầu, chỉ có thể ngoan ngoãn “hiện thân”: Bạn từ chù Lan Nhược đến à?
Nhiếp Tiểu Sảnh: Đừng nhắc đến chùa Lan Nhược gì đó với tôi, bây giờ chúng ta nói về Hoang thôn nhé.
Tôi: Sao bạn lại biết số QQ của tôi? Tôi rất ít khi chat trên mạng.
Nhiếp Tiểu Sảnh: Cái này anh không quãn được đâu.
Tôi: Tại sao bạn cứ phải nhằm vào tôi?
Nhiếp Tiểu Sảnh: Bởi vì do anh viết “Hoang thôn”, ai gây ra rắc rối thì người đấy đi giải quyết.
Tôi: Câu này ý gì?
Nhiếp Tiểu Sảnh: Anh sẽ hiểu thôi.
Tôi: Tôi đã gửi email cho bạn, bạn đã nhận được chưa?
Nhiếp Tiểu Sảnh: Nhận được rồi. Anh rút cuộc sẽ nhìn ra ai là mèo, ai là chuột. Còn nữa, tôi không sáng tác truyện, càng không viết tiểu thuyết, nếu như nói ai đang “giả mạo thần thánh ma quỷ” thì người đó chính là anh.
Tôi: Nếu muốn tôi tin bạn, thế thì xin bạn hãy nói cho tôi biết, bạn rút cuộc là ai?
Nhiếp Tiểu Sảnh: Tại sao biết rồi còn cố mà hỏi? Tôi không phải đã nói với anh rồi sao?
Tôi: Bạn nói là “Nhiếp Tiểu Sảnh”? Thôi đi, thế Nhiếp Tiểu Sảnh đấy với Hoang thôn có liên quan gì đến nhau chứ?
Nhiếp Tiểu Sảnh: Điều này tôi cũng muốn biết.
Tôi: Tôi chịu hết nổi bạn rồi, tôi thấy bạn đang chơi ác tôi.
Nhiếp Tiểu Sảnh: Không, tôi đảm bảo anh sẽ nhanh tin tôi thôi.
Tôi: Chấm dứt đi, tôi không muốn nhìn thấy “Nhiếp Tiểu Sảnh” nữa. Xin lỗi, tôi thoát ra đây.
Nhiếp Tiểu Sảnh: Anh chạy không thoát đâu.
Tôi out ra ngoài như tháo chạy thoát thân, sau đó dứt khoát tắt luôn điện thoại.
Thật không ngờ cái người “Nhiếp Tiểu Sảnh” này truy tôi truy lên tận QQ. Cho dù đối phương không phải là chơi ác, nhưng chỉ cần chat với Nhiếp Tiểu Sảnh là cũng đã đủ để tôi liên tưởng đến “Liêu trai chí dị” rồi. Xem ra đến lên mạng cũng không an toàn nữa, việc này thật là phiền hà, lúc này tôi chợt nghĩ tới Diệp Tiêu. Không, bây giờ vẫn chưa tới lúc làm phiền anh ấy.
Tôi nằm xuống chợp mắt một lúc, không hiểu sao nhịp tim bất giác tăng tốc, điện thoại của tôi đổ chuông.
Nửa đêm vang lên tiếng điện thoại thường khiến người ta bồn chồn bất an, tôi từ từ nhấc điện thoại thì thấy một số lạ. Lẽ nào cái người thần thông quản đại “Nhiếp Tiểu Sảnh” dò đến số điện thoại của tôi cũng biết rồi?
Tôi do dự một lúc lâu, nhạc chuông “Bóng ma nhà hát” cuối cùng đã vang lên, hình như nó đang ra sức thôi thúc điều gì đó. Cuối cùng, tôi không chịu được đã phải nghe máy, một giọng nói kỳ lạ truyền qua điện thoại, có chút chói tai, sau đó lại bình tĩnh trở lại, hình như là tiếng thở kỳ lạ nào đó.
“Alô! Nói đi chứ!”
Tôi kêu vài câu trong điện thoại, nhưng đầu dây bên kia vẫn là những âm thanh kỳ quái, đúng lúc tôi đang chuẩn bị ngắt máy thì âm thanh ồn ào vọng vào tai tôi: “Alô, chào anh. Tôi là Hoắc Cường”.
Sóng điện thoại rất không ổn, có rất nhiều tạp âm từ trước tới nay tôi chưa từng nghe thấy cứ lạo xạo mãi bên trong.
“Hoắc Cường?” Cái tên này hình như có chút quen tai, nhưng ngay lúc đó tôi lại không thể nhớ ra được.
“Tôi chính là sinh viên mấy hôm trước đến tìm anh, chúng tôi có tất cả bốn người đến hỏi thăm anh”.
“Đúng rồi, tôi nhớ ra rồi. Bây giờ đã nửa đêm rồi, tìm tôi có việc gì không?”
“Tôi muốn nói với anh, chúng tôi hiện đã đến rồi”.
Trong phút chốc tôi vẫn chưa kịp phản ứng lại: “Đến rồi? Đến đâu rồi?”
“Hoang thôn” giọng cậu ta trong điện thoại đặc biệt hưng phấn. “Chúng tôi đã đến Hoang thôn rồi”.
Câu này thì tôi đã nghe thấy rõ. Điện thoại suýt nữa là tuột khỏi tay tôi rơi xuống đất, đầu óc tôi bất giác có chút hỗn loạn, không biết nên nói gì, tôi hỏi hết sức vô lý: “Đến rồi? Đến trong lúc ngủ mơ đúng không?”
“Đâu có, chúng tôi thật sự đến nơi rồi!” lần này người nói chuyện chuyển thành một giọng nữ. “Tôi là Hàn Tiểu Phong, chúng tôi thực sự đã đến Hoang thôn, vừa mới đến được mấy phút trước, bây giờ đang đứng dưới tấm bia đá ngoài cổng thôn. Chúng tôi dùng đèn pin soi thấy những chữ trên tấm bia, giống hệt như trong truyện mà anh viết: Trinh Liệt Âm Dương, đúng không?”
Trong điện thoại hình như có cả tiếng gió biển đang gào thét, lúc này đang là lúc thủy triều lên hay thủy triều xuống?
“Không phải lo lắng, là do chúng tôi tự mình tìm thấy. Được rồi, bây giờ chúng tôi phải vào Hoang thôn đây”.
“Đừng vội vàng như vậy, các bạn vẫn có thể đợi đã”.
“Đợi? Bây giờ đã là nửa đêm, lẽ nào anh muốn chúng tôi ngủ qua đêm trên núi”.
“Cái này…”
Tôi vẫn còn muốn nói gì đó, nhưng đã bị cô ấy chen ngang: “Được rồi, chúng tôi vẫn sẽ còn liên lạc với anh, muộn thế này làm phiền anh, thành thật xin lỗi. Bye bye”.
Đối phương ngắt máy.
Tôi cầm điện thoại ngây ra một lúc lâu, tiếng gió đáng sợ dường như vẫn còn vang vọng bên tai. Hơi thở của tôi càng lúc càng gấp gáp, dứt khoát phải đến bên cửa sổ hít thở, hy vọng là có thể xua tan cảm giác ức chế mà cuộc điện thoại ban nãy gây ra.
Bọn họ thật sự đã đến Hoang thôn?
Không, ác mộng bắt đầu rồi. .
NGÀY THỨ NĂM
Đúng vậy, ác mộng của tôi cũng dần dần bắt đầu rồi.
Ban đầu khi viết “Hoang thôn”, tôi không hề ý thức được sức mạnh của nó lại lớn đến nhường vậy, khiến bốn sinh viên như bị trúng tà, hơn nữa họ còn thực sự tìm thấy Hoang thôn. Sau khi biết họ đã đặt chân tới Hoang thôn, tôi thực sự không thể dự đoán được những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Khi biết được sự thật tuyệt đối không thể lãng mạn giống như tiểu thuyết, nếu như quán trọ Jamaica thực sự tồn tại thì nhất định sẽ khủng khiếp hơn gấp vạn lần tiểu thuyết của Daphne du Maurier.
Buổi sáng hôm nay, điện thoại của tôi nhận được tin nhắn hình, người nhắn chính là số điện thoại của chàng sinh viên đêm qua gọi cho tôi.
Tôi mở tin nhắn hình ra, hình ảnh được chụp lại bằng diện thoại, bối cảnh là tấm bia đá ở cổng Hoang thôn, bốn sinh viên đứng dưới tấm bia, dáng vẻ vô cùng hưng phấn, ngón tay còn do cả dấu hiệu chữ V.
Cả bốn người đều trong ảnh rồi, vậy thì ai đã chụp ảnh cho họ? Có lẽ là nhờ người dân trong thôn cầm điện thoại chụp hộ. Đêm hôm qua, bốn sinh viên này nhất định đều đã vào Hoang thôn rồi, không biết họ đã qua đêm ở đâu?
Nhìn mặt họ trên tin nhắn hình, tuy vẫn còn trẻ, nhưng tôi lại có cảm giác đặc biệt quan tâm đến họ. Đúng thế, nếu tôi không viết “Hoang thôn”, họ làm sao có thể đến địa điểm đó? Nếu như họ xảy ra chuyện gì ở Hoang thôn, ít nhất về mặt đạo lý tôi cũng không thoát khỏi liên quan.
Nhưng họ làm thế nào mà tìm được Hoang thôn?
Hiện tại tôi có thể nói với các bạn, lúc đó tôi đã phát hiện ra Hoang thôn như thế nào. Mấy tháng trước, trong vòng một đêm tôi đã đọc xong cuốn sách “Cổ gương u hồn ký” và liền hạ quyết tâm nhất định phải tìm bằng được Hoang thôn. Sau đó, tôi đã tới thư viên Thượng Hải, trong đó có một phòng đọc tư liệu nội bộ, đấy là nơi tôi tường ghé qua.
Nhưng để tìm một tác giả đời Thanh tên là “Hoang thôn kiếm khách” thật chẳng khác nào mò kim đáy bể. Thời đó, mỗi văn nhân đều có tới vài bút danh kỳ quái, có khi tác giả nổi tiếng đời Thanh hậu thể lại chỉ biết tới những bút danh khác của tác giả đó, còn ông ta rút cuộc là ai thì cũng chẳng có cách nào để kiểm chứng cả. Thế nên, trước tiên tôi tìm nhà xuất bản của “Cổ gương u hồn ký” – nhà sách Cô Sơn Hàng Châu, và thời gian phát hành là đời Càn Long thứ 43. Tôi bỏ ra cả một ngày và đã tìmda9ra được nhà sách Cô Sơn Hàng Chau, căn cứ vào tài liệu ghi chép lại thì nhà sách này sáng lập vào đời Khang Hy thứ 19, kinh doanh mãi đến tận thời Hàm Phong thứ 6 mới đóng cửa. Những năm đó, “nhà sách” tương đương với nhà xuất bản ngày nay, thời đó số lượng nhà sách rất đông, nhưng quy mô lớn lại rất ít, lúc nào cũng đối diện với nguy cơ phá sản. Nhà sách Cô Sơn Hàng Chau rút cuộc phát hành bao nhiêu sách, trong tài liệu cũng không ghi chép. Và “Cổ gương u hồn ký” cũng không thấy được nhắc đến trong những tài liệu văn hiến. Xem ra cuốn “Cổ gương u hồn ký” đang nằm trong tay tôi là một cuốn hiếm thấy và đã không còn phát hành nữa. Như vậy là, manh mối của tôi lại bị đứt đoạn, trong tình hình không còn chứng cứ nào khác thì làm cách nào để biết được Hoang thôn ở đâu đây? Biết đâu nó vốn dĩ chỉ là một địa danh mà tác giả tưởng tượng ra?
Lúc này, tôi đột nhiên nghĩ đến địa phương chí. Đúng, nếu như Hoang thôn và thị trấn Tây Lãnh thực sự tồn tại thì chúng có thể được phản ánh ở trong địa phương chí. Trong phòng đọc vừa vặn sưu tập một lượng lớn địa phương sử chí triều Thanh. Tôi chỉ cần tìm kiếm vùng Chiết Giang là được, nhưng Hoang thôn trong “Cổ gương u hồn ký” nằm cạnh biển, vậy thì phạm vi mà tôi cần tìm kiếm càng nhỏ hơn, chỉ cần tìm đọc huyện chí hoặc phủ chí của các huyện phủ ven biển tại Chiết Giang thời kỳ giữa và cuối đời Thanh là ổn. Nhưng cái đó nói thì dễ, một quyển huyện chí của triều Thanh có những mấy tập, mấy ngày mấy đêm cũng xem không hết. Tôi chủ yếu là tìm kiếm theo mục lục và hướng dẫn tra cứu, xem xem có điều mục nào liên quan tới thị trấn Tây Lãnh. Cuối cùng đến năm giờ chiều, khi phòng đọc sắp phải đóng cửa, tôi đã tìm thấy thị trấn Tây Lãnh trên một quyển phù chí.
Trong chú thích của quyển sách cổ về thị trấn Tây Lãnh này quả nhiên nhắc đến “Hoang thôn”, tôi lập tức ghi chép lại đoạn sách đó.
“Hoang thôn, tên gọi ngày nay, hai mươi dặm về phía đông Tây Lãnh, bốn mươi dặm về phía đông nam kinh thành, Đông giáp biển xanh, non xanh trùng điêp, Nam là bãi chăn thả gia súc, Bắc kề khe nước sâu, đất đai cằn cỗi, cổ danh Hoang Thôn. Hoang Thôn tự cổ không giao tiếp với bên ngoài, tương truyền là vùng đất này không may mắn, con người không lương thiện, tứ phương tám hướng, không ai dám cả gan vào thôn này, nghe dnah Hoang thôn là đã hồn xiêu phách lạc, nếu như có đứa trẻ nào ngỗ nghịch, chỉ cẩn bảo một câu: đưa tới Hoang thôn, đứa trẻ sẽ lập tức ngoan ngoãn. Duy chỉ có những năm triều Gia Tĩnh, Hoang thôn xuất hiện một tiến sỹ cao trung, danh thế đã khiến mẹ ông được ngự giá phong tặng tấm bia tiết hạnh”.
(Lời văn trong sách cổ không có dấu câu, tôi đã tự đánh thêm dấu câu để tiên cho độc giả đọc.)
Xem ra Hoang thôn này thực sự tồn tài, thị trấn Tây Lãnh cũng tuyệt nhiên không phải do bịa đặt. Tôi lại chép tiếp vài trang phủ chí, tóm lại là sau khi đã hiểu rõ huyện phủ cụ thể của thị trấn Tây Lãnh và Hoang thôn, tôi liền vội vã rời khỏi thư viện.
Việc tiếp theo thì dễ xử lý rồi, tôi căn cứ vào tên và vị trí huyện phủ thời nhà Thanh nhanh chóng tìm thấy thành phố K, quả nhiên trên bản đồ giao thông của thành phố K phát hiện thấy thị trấn Tây Lãnh. (Bản đồ tỉnh Chiết Giang tôi cũng đã tìm kiếm qua, nhưng trên bản đồ tỉnh không tìm thấy thị trấn Tây Lãnh).
Cuối cùng thì đã biết Hoang thôn ở đâu, tôi lập tức chuẩn bị một số thứ cho chuyến du lịch, mang theo cả cuốn “Cổ gương u hồn ký”, một mình bước lên chuyến xe khách liên tỉnh từ Thượng Hải tới thành phố K.
Thông qua sáu, bảy tiếng đồng hồ đường trường, tôi đã đến thành phố K, sau đó lại ngồi xe buýt mới đến được thị trấn Tây Lãnh. Tôi hỏi thăm mọi người ở thị trấn Tây Lãnh về tình hình Hoang thôn, nhưng thanh niên bản địa dường như chưa từng nghe thấy cái địa danh Hoang thôn này. Tôi lại tìm khắp các bến xe ở thị trấn Tây Lãnh cũng không tìm thấy một chiếc xe khách nhỏ nào đi tới Hoang thôn.
Sau đó, tôi hỏi mấy người già ở thị trấn mới biết Hoang thôn thực sự có thật, nằm trên bờ biển cách thị trấn Tây Lãnh 20 dặm về phía Đông. Do nghe nói nơi Hoang thôn này không may mắn, những người ở thị trấn Tây Lãnh và gần đó đều rất kị Hoang thôn, từ trước đến nay không ai dám tới Hoang thôn, còn những người Hoang thôn cũng rất ít khi tới thị trấn Tây Lãnh, ở đó dường như cách biệt với thế giới bên ngoài. Nếu như muốn tới Hoang thôn, chỉ có thể đi bộ một đoạn đường núi rất dài.
Những người già đều ra sức khuyên tôi không nên đi, tôi hỏi họ tại sao ở Hoang thôn thì không may mắn, bản thân họ cũng không nói được cụ thể. Thực ra, những gì mà họ nói càng kích thich1ham muốn thám hiểm của tôi. Bởi vậy tôi bất chấp tất cả, ngay chiều hôm đó xuất phát đi bộ trên con đường núi dẫn đến Hoang thôn trong truyền thuyết.
Đường núi khúc khuỷu khó đi, cảnh vật xung quanh giống như tôi viết trong tiểu thuyết. Trời đổ bóng xế chiều, cuối cùng tôi đã tới Hoang thôn, tâm trạng lúc đó của tôi thật sự rất khó diễn đạt thành lời. Tôi vẫn còn nhớ giây phút mà mình ngửa mặt lên nhìn bốn chữ to: “”Trinh Liệt Âm Dương”” trên tấm bia đá triều Minh mà thở không ra hơi.
Tôi cẩn thận rón rén tiến vào Hoang thôn, thỉnh thoảng lắm mới nhìn thấy vài người dân, sau khi thấy tôi họ đều tỏ ra vô cùng kinh ngạc, giống như nhìn thấy ma quỷ vậy, hoặc là có lẽ tôi đang trở thành vị khách hiếm hoi của Hoang thôn. Tôi đi một vòng quanh Hoang thôn, phát hiện ra một ngôi nhà cổ sân rộng sâu hun hút nằm giữa những căn nhà ngói. Tôi cả gan gõ cửa, ra mở cửa là một người đàn ông trung niên ngoài 50 tuổi, ông nhìn tôi chằm chằm một lúc, tôi cũng thành thật nói rõ cho ông biết mục đích chuyển đi của mình.
Ông ấy chính là Âu Dương tiên sinh, chủ nhân của ngôi nhà cổ: Tiến Sỹ Đệ này. Âu Dương tiên sinh tiếp đãi tôi không hề khách sáo, tối hôm đó tôi đã đi hơn 20 dặm đường núi nên thật sự rất đói, lúc đó ông đã giữ tôi lại ăn bữa cơm tối, nói thật lòng là đến giờ phút này tôi vẫn chưa quên được khẩu vị ngon tuyệt của bữa ăn hôm đó. Âu Dương tiên sinh lại chủ động mời tôi ở lại Tiến Sỹ Đệ, ông nói từ trước tới nay chưa từng có người ngoài đến Hoang thôn, thế nên ở đây không có lấy một quán trọ nào cả, còn Tiến Sỹ Đệ lại còn rất nhiều phòng trống. Tuy những căn phòng này xem ra rất đáng sợ, ngôi nhà to như vậy mà chỉ có duy nhất Âu Dương tiên sinh ở, nhưng điều đó vừa vặn hợp với ham muốn thám hiểm và khảo cổ của tôi. Tôi liền nghỉ đêm tại Tiến Sỹ Đệ.
Đêm đầu tiên của tôi tại Hoang thôn bình an vô sự, không thấy xuất hiện những sự việc đáng sợ như trong truyền thuyết. Ngày thứ hai, tôi xin thỉnh giáo Âu Dương tiên sinh về lịch sử của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ. Ông rủ rỉ kể cho tôi nghe ba câu chuyện thời cổ đại. Ba câu chuyện vể tổ tông gia tộc Âu Dương đã thực sự làm tôi chấn động, sua này tôi hầu hết đã viết lại nguyên văn ba câu chuyện này trong truyện ngắn “Hoang thôn” của mình.
Tôi lấy ra cuốn “Cổ gương u hồn ký”, Âu Dương tiên sinh tỏ ra rất kinh ngạc, ông cũng lấy ra một quyển sách giống hệt như thế, nghe nói là do gia tộc tổ tông gia đình ông truyền lại. Hiển nhiên, “Hoang thôn cuồng khách” chính là một tiên nhân của gia tộc Âu Dương Hoang thôn triều Thanh, còn về xuất xứ tiểu sử của tác giả cuốn “Cổ gương u hồn ký” thì Âu Dương tiên sinh cũng không biết rõ.
Trong hai ngày sau đó, tôi đi loanh quanh trong phạm vi Hoang thôn, tỉ mỉ quan sát địa hình và cảnh vật lân cận, quả thật đây là một vùng đất cằn cỗi hiểm ác. Tuy đối diện với biển lớn nhưng không hề cảm nhận được chút lãng mạn nào của thôn nhỏ ven biển, ngược lại còn tạo cho người ta cảm giác đè nén, dường như biển đen lúc nào cũng có thể nuốt chửng thôn xóm. Có lẽ do nguyên nhân môi trường đã tạo nên tính cách trầm mặc, bảo thủ của người dân Hoang thôn.
Ngoài điều đó ra, tôi không phát hiện thêm nhiều điều ở Hoang thôn, chỉ cảm thấy trong Tiến Sỹ Đệ nồng nặc một mùi vị rất đặc biệt, hình như ẩn giấu thứ gì đó, tôi cũng định thỉnh giáo luôn Âu Dương tiên sinh, nhưng ông chỉ im lặng không đáp, dường như ông vẫn lo lắng điều gì đó.
Tôi hiểu ra Hoang thôn vẫn còn rất nhiều bí mật, nhưng sự cẩn trọng đã khiến tôi không dám thâm nhập vào trong thôn dân, tôi cảm giác trên người họ có một luồng khí u uất khiến con người thật khó sinh tồn. Bắt buộc phải thừa nhận, chuyến đi Hoang thôn này của tôi đã không đến được nơi mình định đến. Đến ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, tấm bia được ngự giá ban tặng, nghĩa trang ven biển, còn có cả ba câu chuyện của gia tộc Âu Dương đều khiến nỗi nhớ thấp thỏm Hoang thôn của tôi càng thêm mãnh liệt. Dĩ nhiên, tôi không thể thực sự thậm nhập vào bên trong, bí mật của Hoang thôn giống như một mê cung khổng lồ, tôi đã tìm thấy cửa mê cung nhưng lại không có chìa khóa mở cửa.
Đủ rồi, tôi không muốn hồi tường tiếp nữa để có thể vĩnh viễn quên đi những ký ức đó.
Những ngày qua phát sinh một loạt những truyện ly kỳ, khiến tôi càng lúc càng mệt mỏi, mấy hôm nay tôi không lên mạng (thực tế là lo lắng trên mạng sẽ lại bị quấy rồi khi gặp phải cái người không chỗ nào không có mặt “Nhiếp Tiểu Sảnh” kia), nên tối tối tôi đều đi ngủ từ rất sớm.
Không biết bao lâu sau, một hồi chuông điện thoại vồn vã vang lên kéo tôi trở về với thực tại. Đầu tôi mơ màng chuyển hướng, mở mắt, trời ơi, bây giờ là 3 giờ sáng, tôi lập tức nghĩ tới mấy sinh viên đang ở Hoang thôn.
Lập cà lập cập cầm lấy điện thoại, nhưng đầu dây bên kia lặng thinh, điện thoại vẫn chưa ngắt, tôi lớn tiếng gào lên mấy câu: “Là Hoắc Cường à? Hay là Hàn Tiểu Phong? Các bạn đang ở Hoang thôn sao?”
Vẫn không có tiếng nói, tôi lại đợi thêm mấy phút, đợi đến khi tôi hết kiên nhẫn thì đột nhiên lại nghe thấy giọng con gái nhỏ nhẹ: “Anh đang nói chuyện với ai?”
Không phải họ, tôi lập tức ngây người ra, giọng nói đó hoàn toàn xa lạ, nhưng lại có sức hút mạnh mẽ như nam châm kích thích màng nhỉ tôi.
Tôi hỏi thăm dò: “Xin hỏi cô là ai?”
Đối phương lại im lặng, tôi “alô” liên tục mấy tiếng nhưng chỉ nghe thấy những tiếng tạp âm kỳ quái.
Rút cuộc là ai? Phút chốc, tim tôi run rẩy, hình như là giác quan thứ sáu thần kỳ đã khiến tôi nghĩ tới một người không thể nghĩ tới.
“Nhiếp Tiểu Sảnh? Cô là Nhiếp Tiểu Sảnh đúng không?”
Tôi cẩn thận hỏi một câu, nhưng đối phương không đáp lại, tôi tiếp tục truy vấn: “Là cô, nhất định là cô. Tại sao không nói gì?”
Đúng lúc này, đối phương gác máy.
Rút cuộc, tôi thở hắt ra một hơi thật dài rồi ném điện thoại lên ghế sô pha.
Thực ra trong lòng tôi cũng mơ hồ, đó thật sự là “Nhiếp Tiểu Sảnh” sao? Nhưng làm sao cô ta lại biết được số điện thoại di động của tôi? Lẽ nào đây đúng là một u hồn không lỗ nào là không chui vào được?
Tôi nghi ngờ hay là cô ta bị bệnh tâm thần? Nửa đêm tiếng chuông điện thoại lôi tôi dậy từ trong mơ rồi lại bồng bềnh bay mất như một con ma.
Đêm đó, tôi cũng không sao ngủ lại được nữa.
NGÀY THỨ SÁU
Cuộc điện thoại bí ẩn lúc nửa đêm khiến tôi mệt mỏi vô cùng, trời đã sáng mà mắt tôi vẫn không tài nào mở ra được. Nhưng hôm nay tôi đã hẹn tới ban biên tập để bàn về chuyện bản thảo, buổi sáng vẫn cứ phải cố mà bước chân ra khỏi cửa.
Khi xuyên qua cửa soát vé tàu điện ngầm, tôi bỗng cảm nhận đằng sau hình như có vật gì đó, quay đầu lại nhìn thì thấy một dãy người đang xếp hàng dài, nhưng tôi cảm giác trong đám người đó có một đôi mắt đang nhìn mình chằm chằm. Cứ như vậy, tôi đã đứng chôn chân ở cửa soát vé mười may phút, những người xếp hàng dài đằng sau bắt đầu phẫn nộ la ó, tôi đành phải lắc lắc đầu đi vào trong.
Sau khi vào trạm ga tàu điện ngầm, cảm giác kỳ lạ đó vẫn nghiễm nhiên tồn tại, tôi cảnh giác nhìn ngó xung quanh, một khuôn mặt lạnh lùng giống như sân ga lạnh lẽo này xuyên qua ánh nhìn của tôi.
Đoàn tàu hú còi tiến vào, tôi chen vào trong toa cùng đám người huyên náo đứng trước một ghế ngồi sát cạnh cửa sổ. Đoàn tàu tiến vào đường hầm tối đen, khuôn mặt tôi lúc ẩn lúc hiện trên tấm kính cửa sổ, đằng sau tôi còn có rất nhiều khuôn mặt của những người khác, dấu ấn đôi mắt và biểu cảm của những khuôn mặt đó thật kỳ dị, giống như bộ phim “Thiên sứ tình yêu” của Pháp.
Đúng vậy, tôi có thể phát hiện ra đôi mắt ấy, tôi chắc chắn cô ta đang ở xó xỉnh nào đó âm thầm nhìn mình chằm chằm, chỉ là lúc này tôi không tìm ra cô ta. Cô ta giống như một cái bóng vô hình, kiên quyết giữ khoảng cách nhất định với tôi, nhưng lại không để tôi vượt qua khỏi mắt cô ta.
Cô ta đang theo dõi bám sát tôi.
Cô ở đâu? Cô ra đây cho tôi, cô là bóng tối bước vào cuộc đời tôi hay là một u hồn bỗng nhiên xuất hiện?
Đột nhiên, tôi phát hiện tất cả những người trong toa tàu đều đang nhìn mình giống như phát hiện ra một bệnh nhân tâm thần vậy. Hóa ra, ban nãy tôi đã tự mình hét lên khiến cả toa tàu đều nghe thấy.
Tôi xấu hổ cúi đầu, may mà đúng lúc tôi phải xuống ga nên vội vàng cúi gằm chen ra ngoài. Tôi không biết cô ta có bám theo sau mình không, nhưng tôi không dám quay đầu lại nhìn, vội vã chạy khỏi ga tùa hỏa giống như vứt bỏ cái đuôi đằng sau bắt đầu tháo chạy, chạy một mạch đến đường Cự Lộc.
Một rưỡi chiều, tôi lòng dạ thấp thỏm đi từ ban biên tập ra, tiện tay vẫy một chiếc tắc xi để về nhà.
Về tới nhà, cả ngày tôi đứng ngồi không yên, chỉ sợ cái người “Nhiếp Tiểu Sảnh” kia lại đến tìm tôi bằng cách nào đó, bởi vậy buổi sáng trước khi ra khỏi nhà tôi đã tắt điện thoại.
Buổi tối, đến máy tính tôi cũng không bật mà lấy quyển tạp chí có đăng truyện ngắn “Hoang thôn” ra lật lại, hai chữ “Tiểu Chi” lập tức đập vào mắt tôi.
Tiểu Chi?
Đúng thế, trong truyện ngắn “Hoang thôn” tôi có viết về một nhân vật quan trọng, đó chính là con gái Tiểu Chi của Âu Dương tiên sinh, cô ấy trở thành nhân vật nữ chính của câu chuyện và cũng kích thich1 được sự hứng thú của rất nhiều độc giả. Đương nhiên, cô ấy chỉ là nhân vật được hư cấu trong truyện mà thôi.
Thực tế chưa từng thấy Tiểu Chi.
Mấy tháng trước tôi tới Hoang thôn, trong ngôi nhà cổ kính Tiến Sỹ Đệ, tôi chỉ gặp một mình Âu Dương tiên sinh. Ông là một người rất kỳ lạ, lúc thì trầm ngâm lúc lại huyên thuyên không dứt, tôi vẫn nhớ khuôn mặt của Âu Dương tiên sinh lúc ẩn lúc hiện dưới ánh đèn mở ảo trong đại đường ngôi nhà cổ. Ông giống như bà Tường Lâm bất hạnh, lải nhải nhắc đi nhắc lại với tôi mỗi một câu, ông nói ông có một cô con gái xinh đẹp, tên là Tiểu Chi, con gái từ nhỏ đã rất thông minh, là đứa bé xuất sắc nhất Hoang thôn, hiện đang học khoa Trung văn tại một trường đại học danh tiếng tại Thượng Hải.
Trong hai ngày ở Hoang thôn, Âu Dương tiên sinh nhắc tới con gái ít nhất cũng vài chục lần, hình như mỗi lần nhắc đến ông đều có chút thương tâm. Ông nói ông rất yêu con gái mình, nhưng con gái học đại ọc ở Thượng Hải đã rất lâu rồi chưa về Hoang thôn. Âu Dương tiên sinh nói mình rất nhớ Tiểu Chi, có lúc còn bỗng nhiên chảy cả nước mắt.
Sau khi trở lại Thượng Hải, tôi lập tức đến trước đại học của Tiểu Chi tìm kiếm cô ấy. Trong khoa Trung Văn của trường đại học danh tiếng này đích thực có một nữ sinh tên là Âu Dương Tiểu Chi, quê tại thành phố K tỉnh Chiết Giang, Nhưng kết quả khiến tôi giật bắn mình, Âu Dương Tiểu Chi một năm trước đã mất trong một tai nạn đường sắt.
Sau khi biết tin, tim tôi bỗng chốc giá lạnh, không dám tiếp tục tìm kiếm nữa. Tôi càng không dám nói với Âu Dương tiên sinh hung tin này, ông nhớ con gái đến nhường vậy, nếu như ông biết con gái mình đã qua đời một năm trước… Không, nghĩ tới bộ dạng của Âu Dương tiên sinh chẳng khác gì bà Tường Lâm, tôi nghĩ ông ấy chắc chắn sẽ không chịu đựng được khi biết tin này.
Mười mấy ngày sau, tôi vẫn bị cảm giác kỳ lạ này đeo bám. Cho dù Tiểu Chi và tôi chưa từng quen biết nhau, thậm chí chưa từng gặp mặt, nhưng tôi lại có một cảm giác đau buồn và cảm khái không thể nói thành lời, dường như tôi đã quen cô ấy từ rất lâu rồi.
Sau đó, tôi quyết định tìm kiếm tài liệu để viết một câu chuyện ngắn về Hoang thôn, trong truyện ngắn đặc biệt này, Tiểu Chi đã chết một năm trước trở thành nhân vật nữ chính. Trong truyện, một năm trước cô cũng đã qua đời, nhưng hồn cô vẫn chưa siêu thoát, cuối cùng lại trở về Hoang thôn, trở về bên người cha sinh cô ra, nuôi dưỡng cô, và phát hiện ra tình yêu. Những miêu tả về Tiểu Chi trong truyện “Hoang thôn” lại khác hoàn toàn với sự tưởng tượng của tôi, nhưng tôi vẫn tin rằng đó chính là bóng dáng của Tiểu Chi.
Cho dù cách viết này gây nhiều tranh cãi, nhưng để tưởng nhớ cô gái đến từ Hoang thôn và đã mất ở Thượng Hải, tôi cảm thấy làm như vậy thật sự rất ý nghĩa.
Ký ức giống như suối chày, áo ào tuôn xả trong đầu tôi, chảy mãi, chảy mãi cho tới khi tôi nhắm mắt lại chìm vào giấc mộng.
Nửa đêm, chuông điện thoại lại vang lên.
Chuông điện thoại vồn vã vào lúc này rất dễ khiến người ta liên tưởng đến một bộ phim kinh dị của Nhật Bản, tim tôi bị tiếng chuông kích thích nhảy nhót trong lồng ngực, đành phải dụi mắt nghe điện thoại: “Alô?”
“Tôi là Nhiếp Tiểu Sảnh”.
Ban đầu tôi vẫn chưa tỉnh ngủ, mấy phút sau mới đột nhiên phản ứng lại: “Cô nói cô là ai?”
“Nhiếp Tiểu Sảnh”.
Cô ta đúng thật là u hồn trong Liêu trai của Bồ Tùng Linh chạy ra sao?
NGÀY THỨ BẢY
Tối qua ngủ không đủ giấc, buổi sáng vất vả lắm tôi mới bò dậy được, tôi đã dành hẳn cả một buổi sáng để nghĩ xem làm thế nào để thoát được khỏi sự phiền nhiễu đáng ghét. Buổi trưa, tôi rút cuộc bật điện thoại lên, lập tức nhận được mấy tin nhắn cùng lúc, khiến tôi kinh ngạc ở chỗ, có một tin nhắn đến từ “Hoang thôn”.
“Có một việc quan trọng muốn hỏi anh, hãy gọi vào số của tôi, Hoắc Cường”.
Hoắc Cường? Nhớ ra rồi, chính là người thanh niên dẫn đầu trong bốn sinh viên đó. Tin nhắn đến từ Hoang thôn này khiến tôi run rẩy, tôi xem lại thời gian tin nhắn đến, là 10 giờ sáng hôm qua. Để tránh bị làm phiền, hôm qua tôi đã tắt mấy cả ngày, có lẽ họ đã xảy ra chuyện gì thật sao?
Tôi đi đi lại lại trong phòng một lúc lâu, rút cuôc gọi vào số của Hoắc Cường.
Bên kia điện thoại vọng lại giọng Hoắc Cường đầy lo lắng: “Alô, là anh à? Hôm qua chúng tôi gọi cho anh cả ngày nhưng sao anh cứ tắt máy vậy?”
Bây giờ âm thanh đã nghe rất rõ ràng, không hề có những tạp âm kỳ dị như lần trước, tôi lạnh lùng hỏi: “Nói mau, xảy ra việc gì?”
“Chúng tôi tìm thấy ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ rồi, quả nhiên giống như những gì anh miêu tả trong truyện, sân rộng và sâu, tối đen rất đáng sợ. Nhưng mà cả ngôi nhà to như thế không có lấy nổi một người, chúng tôi đã tìm ở tất cả các phòng, toàn là trống hết”.
“Âu Dương tiên sinh không ở đấy sao?”
“Âu Dương tiên sinh gì, đấy là nhân vật mà anh nghĩ ra trong truyện đúng không?”
Tôi ảm thấy có chút bất thường; “Ý cậu là sao?”
“Hôm qua chúng tôi đi hỏi dân trong thôn rồi, họ nói Âu Dương tiên sinh tám tháng trước đã mất vì căn bệnh ung thư rồi”.
“Cái gì?”
“Âu Dương tiên sinh là người chết, tám tháng trước đã chết rồi, tất cả mọi người ở Hoang thôn đều nói như vậy, chúng tôi thậm chí còn phát hiện ra mộ của ông ấy trên núi”.
Sống lưng tôi lạnh toát: “Không thể, tuyệt đối không thể”.
“Tôi không lừa anh đâu, thảo nào trong truyện anh viết cả nhà Âu Dương đều đã chết hết rồi, có đúng không?”
“Không”. Tôi bỗng chốc đờ đẫn cả người, không biết phải làm thế nào để thuật lại cho họ nghe về tất cả những gì tôi nhìn thấy. Bỗng nhiên, tôi linh cảm thấy điều gì đó, dường như hơi thở của Hoang thôn đã thông qua sóng điện từ truyền vào nhà tôi, tôi lập tức hét lên: “Hoắc Cường, bây giờ cậu ở đâu? Tình hình thế nào rồi?”
“Thì đang ở trong Tiến Sỹ Đệ, bốn người chúng tôi đều ở đây”.
“Nhanh rời khỏi đó, các cậu nhanh rời khỏi Hoang thôn, đi, lập tức quay lại Thượng Hải”.
Nhưng Hoắc Cường cố chấp nói trong điện thoại: “Không, chúng tôi vẫn chưa biết được bí mật của Hoang thôn. Chúng tôi không thể bỏ đi”.
Anh ta ngắt máy.
Rất lâu sau, tư duy hỗn loạn của tôi mới dần dần hồi phục lại, tỉ mỉ hồi tưởng lại những gì mà Hoắc Cường nói ban nãy, Âu Dương tiên sinh thật sự chết rồi sao?
Cậu ấy nói Âu Dương tiên sinh tám tháng trước đã chết rồi, nhưng bốn tháng trước tôi tới Hoang thôn không phải là đã tận mắt nhìn thấy Âu Dương tiên sinh đó sao? Ông ấy còn nhiệt tình mời tôi ở lại Tiến Sỹ Đệ, về ba câu chuyện của gia tộc Âu Dương cũng là chính ông ấy đích thân kể cho tôi nghe.
Nếu đúng như những gì Hoắc Cường nói, Âu Dương tiên sinh đã chết tám tháng trước, vậy bốn tháng trước lúc tôi ở trong Tiến Sỹ Đệ thì cái ông Âu Dương tiên sinh mà tôi nhìn thấy là ai?
Lẽ nào ông ấy là… Không, tôi không dám nghĩ tiếp nữa, tuy tôi đã từng viết rất nhiều truyện kinh dĩ nhưng vẫn chưa từng trải qua việc nào đáng sợ như thế này: sống mà lại gặp ma.
Không thể tưởng tượng nổi! Tôi chỉ có thể dùng câu “không thể tưởng tượng nổi” để hình dung sự việc này.
Nghĩ tới người đã từng tiếp xúc trực tiếp với mình, hóa ra lúc đó đã chết từ mấy tháng trước thì làm sao có thể khiến người ta tin được?
Lúc này đầu óc tôi lại rối bời, logic thông thường không có cách nào để lý giải mọi cuyện, lẽ nào đây cũng là một phần của Hoang thôn thần bí?
Đột nhiên, tôi nghĩ tới một người.
Anh ta chính là Diệp Tiêu.
Những người đả từng đọc qua tiểu thuyết của tôi đều biết, Diệp Tiêu chính là anh họ của tôi, cũng là một cảnh sát xuất sắc, anh đã từng xuất hiện trong rất nhiều vụ án bí ẩn và cũng đã giúp đỡ tôi rất nhiều.
Bây giờ tôi đang bó tay trước việc này, người có thể giúp được tôi chỉ có thể là Diệp Tiêu.
Buổi tối, tôi đến nhà Diệp Tiêu.
Sự ghé thăm đột ngột của tôi khiến Diệp Tiêu có chút bất ngờ, bộ dạng của anh vẫn như trước đây, khuôn mặt trẻ trung lạnh lùng nhưng vẫn toát lên chất già dặn. Anh kể gần đây anh mới phá xong một vụ án bí ẩn, mấy hôm nay đang trong kỳ nghỉ phép. Và anh cũng đã đọc qua truyện ngắn “Hoang thôn” của tôi.
Sau những câu hỏi thăm, tôi liền đi thẳng vào vấn đề, kể lại cho Diệp Tiêu nguyên vẹn và toàn bộ những chuyện mấy tháng trước tôi tới Hoang thôn, đến khi trở về thì đăng truyện ngắn “Hoang thôn”, rồi những việc phiền phức gần đây tôi gặp phải.
Tôi kể rồi lại kể, bản thân cũng không tránh khỏi cảm giác bắt đầu thấy sợ hãi, đây hoàn toàn không phải phong cách của tôi từ trước tới nay. Nói xong chữ cuối cùng, trên trán tôi cũng nhỏ xuống những giọt mồ hôi lạnh toát.
Nghe xong tất cả những chuyện đó. Diệp Tiêu im lặng hồi lâu, anh vẫn luôn lạnh lùng trầm ngâm như vậy, lặng lẽ nhâm nhi từng chi tiết tôi vừa kể. Nhưng lần này anh chìm sâu vào suy tư, giống như cao thủ cờ vây gặp phải một ván cờ mà tàn cục rất khó giải thoát.
Vậy mà, câu trả lời của anh ấy làm tôi thất vọng: “Cậu xác nhận tất cả những điều này là thật chứ?”
“Đương nhiên, đương nhiên là thật, anh cho rằng đây là ảo giác của em hay lại là một bộ tiểu thuyết khác sao?”
Diệp Tiêu trả lời lãnh đạm: “Cậu đừng căng thẳng quá, tôi hiểu tâm trạng của cậu. Bây giờ, chủ yếu có hai việc khiến cậu vô cùng đau đầu: việc thứ nhất là bốn sinh viên đến Hoang thôn thám hiểm, hôm nay họ nói với cậu qua điện thoại Âu Dương tiên sinh mà bốn tháng trước cậu gặp thực ra đã chết từ tám tháng trước, điều này khiến cậu rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Việc thứ hai là có một người phụ nữ bí ẩn tự xưng là Nhiếp Tiểu Sảnh, cô ta lời dụng những truyền thuyết hoang đường về Hoang thôn không ngừng quấy rồi cậu, thậm chí còn âm thầm đeo bám theo cậu”.
“Không sai, anh nhất định phải giúp em”.
“Yên tâm đi, việc của cậu cũng là việc của anh. Chỉ là anh thấy câu không nên tiếp tục nhúng tay vào, cứ để những việc này qua đi, chẳng bao lâu sau mọi người cũng quên hết thôi”.
“Được rồi, thế thì anh nói cho em biết, em bây giờ phải làm thế nào?”
“Việc thứ nhất không có cách giải quyết được, trừ khi bản thân cậu lại đến Hoang thôn chuyến nữa”.
Tôi lập tức lắc đầu: “Không, em sẽ không đi lần nữa đâu”.
“Nhưng việc thứ hai anh có thể giúp cậu một tay”.
NGÀY THỨ TÁM
Lại mưa rồi.
Những cơn mưa rả rích làm dịu mát Thượng Hải đang vào tiết giao mùa xuân hạ, mọi thực vật đều thức dậy mạnh mẽ trong làn mưa, vươn ra những cành xanh nõn xâm chiếm từng kẽ hở trong không gian. Dưới bóng tối u ám đang vội vã xâm chiếm, tôi ấm ô lặng lẽ ra khỏi cửa, hơi nước mịt mùng xung quanh giống như nước mưa bao trùm lấy tôi.
Đường sắt trong những ngày mưa gió cũng nồng lên mùi lạnh lẽo ẩm mốc và vắng lặng khác hẳn thường ngày. Tôi từ từ đi qua cửa soát vé, đi xuống thềm ga trống trải. Tôi không đứng sau vạch vàng đợi tàu như mọi khi mà lại chậm rãi chọn lấy một chiếc ghế để ngồi xuống, sau đó lấy sách ra đọc.
Còi tàu vang lên tiến vào trạm, tôi lạnh lùng nhìn cửa tàu mở ra, người bên trong đi ra, người bên ngoài đi vào, tôi vẫn ngồi không nhúc nhích trên ghế chờ. Chừng mấy phút sau, cửa tàu đóng lại, đoàn tàu lại lao đi như bay.
Một lúc sau, chuyến tàu đến hướng khác lại tới trạm, nhưng tôi vẫn ngồi im trên chiếc ghế chờ, mắt nhìn theo đoàn tàu đang rời bến. Cứ như vậy cho tới khi 20 phút trôi qua, tôi vẫn cứ ngồi trên ghế, rất nhiều đoàn tàu đến rồi đi bên cạnh tôi.
Đột nhiên, tôi rời khỏi thềm ga đi lên tiền sảnh phía trên.
Lúc này bước chân tôi tăng tốc, nhanh chóng bước ra khỏi cửa soát vé.
Đúng lúc tôi đang định rời khỏi ga tàu điện ngầm, thì sau lưng truyền lại tiếng bước chân gấp gáp vội vã. Tôi lập tức cảnh giác quay đầu lại liền nhìn thấy một cô gái ngoài 20 tuổi, cô gái mặc bộ quần áo màu đen, đang sải những bước nhanh để chạy về phía tôi, tóc cô gái tung bay theo nhịp chạy, đôi mắt ẩn chứa ánh nhìn cuốn hút.
Khi tôi phát hiện ra cô gái đang chạy nhanh thì đôi mắt cô ta vẫn đang nhắm vào mình, hai chúng tôi lạnh lùng nhìn nhau, cho tới khi cô ấy chạy đến bên tôi. Tức khắc, tôi thò tay tóm lấy cổ tay cô ta, cảm giác mềm mại như đang tóm lấy xương của con mèo con. Miệng cô gái khẽ kêu lên một tiếng, rồi vùng vằng dằng ra nhưng tôi không thể để cho cô ta chạy thoát.
“Nhiếp Tiểu Sảnh?”
Tôi nhìn vào mắt cô ta hỏi.
Cô gái ngớ người ra, ánh mắt toát lên vẻ trầm mặc và cứng đầu, sau đó cô ta cúi đầu không tiếp tục dằng co với tôi nữa.
Lúc này, Diệp Tiêu đã chạy tới, anh nhìn cô gái trước mặt nói: “Khẳng định chính là cô ta. Anh đã âm thầm quan sát cô ta 20 phút rồi, cô ta nhìn em từ xa, em rời khỏi thềm ga cô ta cũng theo sau, lúc đó anh đã chạy lại hỏi chuyện cô ta, cô ta lập tức chạy về phía cửa ra vào”.
Vốn là tối hôm qua, Diệp Tiêu giúp tôi nghĩ cách, dùng kế “dụ rắn ra khỏi hang” để tìm ra cái người “Nhiếp Tiểu Sảnh” này. Khi tôi bước vào ga tàu điện ngầm, Diệp Tiêu đã âm thầm theo sau. Tôi giả vờ giống một tên ngốc, đứng ở thềm ga rồi ngồi xuống bất động, cố ý để lỡ rất nhiều chuyến tàu, nếu có người theo dõi tôi thì ngo đó cũng sẽ để lỡ rất nhiều chuyến tàu như thế này, như vậy sẽ rất dễ bị phát hiện. Quả nhiên, Diệp Tiêu đã chú ý đến cô gái kỳ lạ này và xác định cô ta chính là người đang đeo bám tôi.
Hiện tại, cô ta đang ở trong tay tôi.
Cô gái rút cuộc cũng ngẩng đầu lên, nhìn tôi bằng ánh mắt có chút tủi thân, đôi môi khe khẽ mở ra: “Anh làm tôi bị đau đấy”.
“Xin lỗi”.
Tôi rút ngay tay lại giống như bị điện giật, đối diện với cô gái trẻ trông thật đáng thương này tôi bỗng trở nên bối rối không biết phải làm thế nào. Cô ta hoàn toàn khác với những gì tôi tưởng tượng về kẻ quấy rối. Tôi vốn rắp tâm nổi trận lôi đình làm một tràng dài, nhưng lúc này đây đến một chữ tôi cũng không nhớ ra nổi.
Cô ta xoa xoa cổ tay, nhìn tôi và Diệp Tiêu nói: “Bây giờ các anh đã tóm được tôi rồi, tùy các anh xử lý”.
Tôi lập tức giống như một quả bóng da xì hơi, e dè nói: “Yên tâm đi, chúng tôi sẽ không làm gì cô đâu”.
Tôi nói nhỏ với Diệp Tiêu: “Cảm ơn anh giúp em tìm thấy cô ấy, em muốn nói chuyện riêng với cô ấy được không?”
Diệp Tiêu nhìn vào mắt cô gái rồi thì thầm với tôi: “Được thôi, nhưng em phải cẩn thận
đấy, nhất định không được mềm lòng, theo như kinh nghiệm của anh, thiên sứ và ác quỷ luôn ở cùng nhau đấy”.
Nói xong câu cuối đầy thâm ý, Diệp Tiêu mỉm cười vỗ vỗ vai tôi rồi trịnh trọng nói với cô gái: “Thứ lỗi, vừa nãy khiến cô hoảng sợ. Tôi là một cảnh sát, cậu ấy là em họ tôi, chúng tôi đều không phải là kẻ xấu, hy vọng cô về sau sẽ không quấy rối cậu ấy nữa, nếu không tôi sẽ lại tìm cô đấy. Tạm biệt”.
Diệp Tiêu bước nhanh rời khỏi ga tàu điện ngầm, chỉ còn lại mình tôi nhìn cô gái vận đồ đen dăng bắt đầu có chút căng thẳng. Cô từ từ thở hắt ra, nhìn vào mắt tôi nói: “Tôi chính là Nhiếp Tiểu Sảnh.”
Không thể ngờ được, cảm giác của tôi khi lần đầu tiên nhìn thấy cô ấy chính là trông cô ta thật giống với Nhiếp Tiểu Sảnh trong Liêu trai.
Còn nhớ lúc nhỏ đọc cuốn Liêu trai bằng văn hiện đại, mỗi khi đọc đến “Nhiếp Tiểu Sảnh” trước mắt tôi liền hiện lên hình ảnh một cô gái cổ trang: Cô ấy lặng lẽ ẩn náu trong một ngôi chùa, có một mái tóc dài đen nhánh phủ kín bờ vai, một vòng eo thon thả, khuôn mặt hình trái xoan xinh đẹp, và đôi mắt đẹp như nước hồ mùa xuân, cuốn hút nhất chính là đôi mắt buồn man mác của cô ấy, phảng pất như gợn sóng lăn tăn trên mặt nước.
Lúc này, cô ta đang đứng trước mặt tôi.
Nhưng tôi không dám nhìn cô ấy nữa, khuôn mặt cô giống như hình ảnh bộ phim được phát đi phát lại, lại một lần nữa gợi lên những ký ức hoang tưởng của tôi thời niên thiếu, tôi không kìm chế nổi đã thốt lên một câu: “Thực sự giống quá”.
“Anh nói giống cái gì?”
Giống như nghe trong điện thoại, giọng nói của cô ấy cuốn hút như nam châm, đây chính là giọng nói của nhân vật nữ chính trong Liêu trai sao?
Tôi lúng túng lắc đầu nói: “Không có gì, tôi có thể mời cô uống tách trà không?”
Cô gái nghếch mặt nói: “Tôi đã là con mồi của anh rồi, tùy ý anh thôi”.
Vậy là tôi dẫn cô rời khỏi ga tàu điện ngầm, trời đổ mưa to hơn ban nãy, chúng tôi vào một quán trà nhỏ trên đường Thiểm Tây Nam.
Vừa mới ngồi xuống, cô gái liền nhìn vào mắt tôi hỏi: “Anh hình như có chút căng thẳng”.
“Tôi căng thẳng ư?” Tôi cố ý lảng tránh ánh mắt cô ta, nhìn ra màn mưa ngoài cửa sổ, “Duong799 nhiên, củng ngồi uống trà với người chạy ra từ trong Liêu trai sao lại không căng thẳng được?”
Nhưng cô ta không buồn để ý, vẫn nhìn vào mắt tôi, lạnh lùng hỏi: “Anh thực sự đã tới Hoang thôn rồi ư?”
“Đúng thế, tôi đã đến Hoang thôn, tuyệt đối không lừa cô”.
“Nhưng ‘Hoang thôn’ của anh sai sót quá nhiều, không chân thực chút nào cả”.
“Hoang thôn là truyện, truyện chính là con lại của hiện thực và hư cấu mà”.
Cô gái miệt thị nói: “Thế thì anh xa rời thực tế quá rồi, Hoang thôn của anh chẳng qua chỉ là bức tranh được nhìn thấy từ xa bằng ống nhòm mà thôi”.
“Đúng thế, Hoang thôn nhất định còn có rất nhiều bí mật tôi vẫn chưa biết”. Tôi đâu có muốn cô ta dắt mũi mình, lập tức chuyển chủ đề: “Bây giờ đến lượt cô phải trả lời rồi, cô thật sự tên là Nhiếp Tiểu Sảnh sao?”
Ánh mắt cô ta vụt lên tia hoảng sợ, tôi đoán chắc là cô ấy hình như nhớ ra điều gì đó, nhưng suy nghĩ lại trôi đi ngay sau đó. Cô gái gật gật đầu nói: “Đúng thế, tên tôi là Nhiếp Tiểu Sảnh”.
Ba chữ cuối được cô ta kéo dài giọng, hình như làm kinh động cả những người ở bàn bên cạnh”.
“Thật là không thể tưởng tượng nổi, trên đời này lại có tên trùng hợp như vậy”. Tôi cười đau khổ nói: “Cha cô nhất định chưa từng đọc Liêu trai, hoặc là đọc Liêu trai đến nỗi si mê rồi”.
“Đủ rồi, một người tên là gì thật sự quan trọng vậy sao?”
Tôi nhìn vào ánh mắt lơ đãng vô định của cô ta nói: “Đúng thế, cực kỳ quan trọng. Cô biết không? Dáng vẻ của cô rất giống Nhiếp Tiểu Sảnh trong sách viết”.
“Được rồi, tôi nhượng bộ”. Cô ta có chút chán nản nhún nhún vai, “Nếu như anh kiên quyết cho rằng cái tên Nhiếp Tiểu Sảnh này khiến anh liên tưởng tới ma nữ trong Liêu trai thì xin anh hãy gọi tôi là Tiểu Sảnh nhé”.
“Tiểu Sảnh?”
“Đúng, Tiểu Sảnh của Nhiếp gia”.
Tôi vội vã gật gật đầu: “Ổn đấy, gọi như thế hay hơn nhiều, cảm giác giống như cô gái nhà hàng xóm, Tiểu Sảnh”.
Bỗng nhiên, cô ấy có chút khó chịu: “Tôi đã rất nhượng bộ với anh rồi, bây giờ tôi đã đi được chưa?”
“Nhưng tôi vẫn còn rất nhiều điều muốn hỏi mà”.
Cô ta vội vàng đúng lên.
Tôi theo sau cô ta nói: “Nhưng sau này tôi biết tìm cô ở đâu?”
“Tôi làm ở cửa hàng kem đối diện, lúc nào cũng có thể tìm tôi”.
Cô ta lao ra khỏi quán tà như một con nai, nước mưa ướt át tưới lên người cô ấy, cô cúi đầu chạy qua vạch vàng dành cho người đi bộ rồi chui vào quán kem đối diện bên đường.
Tôi lúc đó không kịp phản ứng lại, vẫn đứng ngay ra ở cửa quán trà, không biết có nên tới cửa hàng đối diện không. Vài phút sau, cô ta xuất hiện trong quầy kem, trên người đã thay bộ đồng phục màu da cam, mái tóc dài đen nhánh được buộc thành đuôi ngực phía sau.
“Nhiếp Tiểu Sảnh bán kem?”
Tôi bỗng bật cười, vài hạt mưa bay đậu trên mũi.
NGÀY THỨ CHÍN
Sáng sớm tỉnh dậy, phát hiện mưa to đêm qua đã tạnh, nhưng những tòa nhà đối diện vẫn ướt sũng, không gian nồng nặc mùi ẩm ướt, không biết Hoang thôn có mưa hay không nhỉ?
Kỳ lạ, sao lại nghĩ tới Hoang thôn rồi? Nghĩ tới đây lòng tôi bỗng run rẩy, tôi bước vào nhà vệ sinh nhìn mình trong gương, nói nhỏ: “Quên chỗ đó đi nhé”.
Tâm trạng cũng đã tốt lên chút ít, tôi mỉm cười với bản thân rồi đánh răng rửa mặt.
Mấy phút sau, đang đúng lúc miệng tôi toàn bọt kem đáng răng thì điện thoại bổng đổ chuông. Tôi không kịp súc miệng, vội vàng cầm điện thoại lên, nghe thấy một giọng nữ: “Alô, tôi là Hàn Tiểu Phong”.
Là những sinh viên đến Hoang thôn? Tay tôi run rẩy, sau đó cố gắng trấn tỉnh lại nói: “Các bạn vẫn đang ở Hoang thôn ư? Lại sao rồi?”
“Cứu chúng tôi với, anh phải cứu chúng tôi”.
Tiếng cô gái thật chói tai khiến tôi hoảng sợ, xung quanh hình như còn có cả giọng của những người khác xôn xao.
Tôi đầy miệng bọt kem đánh răng nói: “Rút cuộc xảy ra chuyện gì? Hàn Tiểu Phong, cô từ từ nói”.
“Tôi nhìn thấy rồi! Tôi nhìn thấy rồi!”
Nghe lạc cả giọng, tôi có thể tưởng tượng ra vẻ mặt của cô ấy.
“Nhìn thấy gì?”
“Đêm hôm qua… 12 giờ… tôi… tôi ở trong Tiến Sỹ Đệ… nhìn thấy…” Cô ấy nói đứt quãng, hình như câu nói rất lộn xộn, “Tôi nhìn thấy… nhìn thấy… cái đó rồi”.
“Cái gì hả?”
Thực tế tôi cũng có chút hoảng sợ, tôi thật sự sợ hãi cô ấy sẽ nói ra cái chữ đáng sợ đó.
Điện thoại vọng ra tiếng khóc của http:: “Anh biết… anh nhất định là biết cái đó”.
Tôi biết cái đó? Trời ơi, đó lại là cái gì nữa? Tôi bị hỏi đến độ đờ đẫn rồi.
Bỗng nhiên, đối phương chuyển thành giọng nam: “Xin lỗi, Hàn Tiểu Phong cô ấy không sao đâu”.
“Cậu là ai?” tôi cảnh giác hỏi.
“Tôi là Hoắc Cường”.
Tôi thở dài: “Thế rút cuộc xảy ra chuyện gì?”
“Không… không có chuyện gì cả, bốn người chúng tôi đều rất ổn. Tất cả… tất cả bình thường”.
“Thế Hàn Tiểu Phong sao rồi?”
“Buổi sáng trước khi ngủ dậy cô ấy có nằm mơ thấy ác mộng, đến bây giờ vẫn cứ nghĩ là thật. Bây giờ cô ấy đã trấn tĩnh lại rồi, anh yên tâm đi”. Giọng Hoắc Cường tỏ ra vô cùng vội vã, “Xin lỗi, đã làm phiền anh”.
Vẫn chưa đợi tôi nói tiếp, đối phương đã kết thúc cuộc gọi.
Tôi từ từ đặt điện thoại xuống, hồi tưởng lại cuộc điện thoại đến từ Hoang thôn vừa xong, sau đó quay lại phòng vệ sinh tiếp tục đánh răng.
Không, Hàn Tiểu Phong không thể nằm mơ thấy ác mộng, cô ấy nhất định nhìn thấy gì đó trong Tiến Sỹ Đệ. Những câu Hoắc Cường nói sua đó rõ ràng là lừa tôi, nhưng tại sao cậu ta phải giấu giếm tôi nhỉ?
Rút cuộc đã phát hiện gì ở Hoang thôn?
NGÀY THỨ MƯỜI
10…
Đây là một con số đặc biệt, tôi cảm thấy nó giống một cánh cổng hơn, trước “10” tôi từ từ đi đi lại lại trước cổng lớn, có thể chờ đợi cũng có thể quay đầu. Nhưng chỉ cần chúng ta bước vào phía trong cánh cổng đó, con số “10” này sẽ biến thành một sợi dây thừng thòng vào cổ chúng ta rồi dắt chúng ta lao điên cuồng về phía trước, bất luận phía trước là thiên đường hay địa ngục.
Hôm nay, ngày thứ 10 của câu chuyện này.
Tròn 10 ngày trước, bốn sinh viên đó đột nhiên ghé thăm nhà tôi, kể cho tôi nghe về kế hoạch thám hiểm to gan của họ. Trong củng một buổi tối, tôi lại nhận được một email thần bí, email này đến từ một cô gái tên là “Nhiếp Tiểu Sảnh”. Kể từ đó, bọn họ đã kéo tôi vào trong vòng xoáy, từng bước từng bước dẫn tôi tới trước cánh cổng khủng khiếp đó.
Tôi có nên tiến vào bên trong không?
Vấn đề này quấn lấy tôi cả ngày, khiến tâm trạng tôi hoang mang buồn phiền. Đến sẩm tối, tôi thực sự không thể ngồi yên được nữa, căn phòng dường như vẫn đang dừng lại vào buổi sáng hôm đó, vẫn còn đó tiếng chuông điện thoại và sự khủng hoảng lạc cả giọng của Hàn Tiểu Phong đến từ Hoang thôn. Sau đó, tôi vội vã ra khỏi nhà, đi tới đường Thiểm Tây Nam.
Tôi đi tìm một người.
Tôi dừng bước trước quán trà đường Thiểm Tây Nam, đứng cách con đường xe chảy cuồn cuộn, tôi nhìn thấy quán kem, ánh đèn cầu vồng chiếu rọi ánh sáng màu đỏ vào cửa hàng, vài cô gái không sợ béo đang ăn kem. Cô gái mặc bộ đồng phục màu cam đang bận rộn làm kem trong quầy bán hàng, cột tóc đuôi ngựa phía sau tung tăng theo nhịp.
Cô ấy chính là “Nhiếp Tiểu Sảnh bán kem”.
Tối nayquan1 kem này đông khách lạ thường, mãi lâu sau trước quầy kem mới có chỗ trống, cô ấy cuối cùng đã có cơ hội ngẩng đầu lên. Tôi vẫn đứng bên đường, giống như đang nhìn ngắm hình ảnh đường phố về đêm, im lặng nhìn vào đôi mắt cô ta, cứ như vậy khoảng một phút qua đi, cho tới khi cô ta nhìn thấy tôi.
Tôi vốn không quen đôi mắt với người khác, nhất là lại đồi mắt với người cách hẳn một con đượng xe cộ nườm nượp như mắc cửi. Rất nhiều chiếc xa nhấn còi lướt qua tôi và cô ta, nhưng kỳ lạ ở chỗ, ánh đèn cầu vòng góc phố vẫn cứ chiếu rọi vào mặt cô ấy, và ánh mắt cô ta rõ ràng đang chỉ dừng lại trước ánh mắt tôi.
Đèn xanh bật sáng.
Tôi ung dung đi qua đường, đến trước quầy kem. Cô lặng lẽ nhìn tôi, không hề có biểu hiện ngạc nhiên, cạnh quầy kem chẳng còn ai, tôi cố ý tạo vẻ hững hờ nói: “Lấy cho tôi một chiếc kem dâu tây”.
Cô ta lạnh lùng nhìn tôi một cái, sau đó im lặng quay đi rồi đưa kem dâu tây vào tay tôi.
“Cảm ơn”.
Tôi đứng trước quầy kem cắn một miếng nói: “Ưm, lâu lắm rồi chưa ăn thứ gì vị dâu tây”.
Rút cuộc, cô ta cũng mở miệng nói chuyện: “Anh thích ăn kem?”
“Không, rất ít ăn”. Tôi vừa nói chuyện, vừa liếm kem, “Nhưng, hôm nay ngoại lệ”.
Cô ta vẫn biểu hiện như trước, bình tĩnh nhìn tôi ăn từng chút kem một, đột nhiên nói: “Xin lỗi, anh vẫn chưa trả tiền”.
“Ngại quá”. Tôi vội vàng móc tiền ra đưa cho cô ta, có chút bối rối nói: “Khi nào cô hết giờ làm, tôi muốn nói chuyện với cô”.
“Thế thì có thể anh phài đợi rất lâu vì tôi phải đợi người tiếp ca tới”.
Tôi trả lời có vẻ bất cần: “Đợi bao lâu cũng được”.
Sau đó, tôi né sang bên cạnh quầy bán kem, dùng khóe mắt liếc nhìn cô ta đang ở trong cửa hàng.
Nhưng người tiếp ca lại tới rất sớm, cô ta đang ở trong quầy tỏ ra chán nản. Hai phút sau, cô ấy đã thay trang phục đi ra.
Vẫn là bộ quần áo đen bó, đèn cầu vồng soi rọi lên từng đường nét trên cơ thể cô. Cô cúi đầu đến bên cạnh tôi: “Hay là vẫn sang bên đối diện nhé?”
“Ừm, được thôi”.
Chúng tôi đi qua đường, bước vào quán trà nhỏ.
Sau khi ngồi xuống, cô ấy tỏ ra vẻ bình thường nói: “Trong truyện anh, anh viết chính là chỗ này sao?”
“Cái gì?”
“Trong truyện ‘Hoang thôn’, sau lần đầu tiên anh và Tiểu Chi gặp nhau, anh đã đưa cô ta tới một quán trà nhỏ gần ga tàu điện ngầm và đề nghĩ cô ấy đưa mình tới Hoang thôn”.
“Đúng, tuy là những nội dung này đều là hư cấu, nhưng quán trà nhỏ này lại là thật, thực tế là tôi thường xuyên tới đây, nhưng từ trước tới nay không hề chú ý tới cô ở đối diện”. Nói xong, tôi nhìn sang bên kia đường.
Cửa hàng kem bên đấy hiện giờ người đang xếp hàng dài trước quầy.
“Tôi tháng trước mới đến làm thuê ở đấy”.
“Xem ra chắc là cô vẫn đang đihọc? Trường nào vậy?”
Cô ta úp mở: “Thôi đi. Nhưng tôi sẽ không nói cho anh biết tôi học trường nào đâu”.
“Cô rút cuộc là ai?”
“Cái này có quan trọng không?” cô ta lảng tránh ánh mắt tôi.
“Được rồi, mặc cô không chịu nói, vậy thì tôi sẽ thay bằng một câu hỏi khác, cô thực sự biết chuyện ở Hoang thôn? Hay đó đều chỉ là hoang tưởng của cô?”
“Đường nhiên không phải”. Biểu hiện của cô ta chuyển hướng nghiêm túc lạ thường. “Tôi thề, mỗi câu nói liên quan tới Hoang thôn của tôi đều là sự thật. Hoang thôn, không phải ai cũng đùa cợt được”.
Câu cuối cùng của cô ấy khiến tôi cũng phải thừa nhận, tôi lập tức cũng trở nên nghiêm túc: “Thế thì mong cô hãy nói về miệng giếng ở Hoang thôn, rút cuộc đấy là hoang tưởng của cô sau khi đọc truyện hay là nghe đồn phong phanh thế?”
“Anh thật sự nhìn thấy miệng giếng đó rồi?”
“Đương nhiên nhìn thấy rồi, chính tại sân đằng sau của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ. Nhưng tôi cảm thấy miệng giếng đó có một mùi rất đặc biệt, tôi không dám viết vào trong truyện”.
“Mùi đặc biệt?”
“Đúng thế, khi tôi đối diện với miệng giếng này, tôi lập túc cảm thấy rất buồn nôn, ngoài việc ngửi thấy mùi đặc biệt đó, hình như tôi còn nghe thấy một âm thanh rất kỳ quái”.
Tôi đột nhiên nhớ ra gì đó, lập tức câm nín, những câu này sao lại có thể nói trước mặt cô ta nhỉ?
Cô ta nhìn xoáy vào mắt tôi, có vẻ như là đang chờ dợi tôi nói tiếp, nhưng tôi không tiếp lời. Sau giây phút bế tắc, cô ta rút cuộc chậm rãi nói: “Tôi biết đấy là mùi đặc biệt gì rồi, mùi người chết”.
Tức khắc, lời của cô ta như băng giá đâm vào lòng tôi, khiến tim tôi bất giác loạn nhịp, đập thình thịch liên hồi. Tôi lắc đầu nói: “Cô lại cố ý hù dọa tôi đấy à?”
Cô ta lắc đầu, lạnh lùng lạ thường: “Bây giờ để tôi nói với anh bí mật của miệng giếng đó”.
“Bí mật giếng cổ?”
Nhiếp Tiểu Sảnh gật đầu nhấp môi một ngụm trà, rủ rỉ rù rì kể: ‘Vào cuối thời nhà Thanh, tuy Hoang thôn vốn là vùng đất cằn cỗi, nhưng gia tộc Âu Dương lại buôn lậu bằng đường biển và trở thành gia tộc giàu có nhất Hoang thôn. Gia tộc Âu Dương sống cuộc sống sa hoa quý tộc trong ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, ba dãy nhà trước sau đều trang hoàng cao sang quý phái, tại vùng Hoang thôn này thì đây chẳng khác gì một cung điện. Sân sau của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ trước đây là một vườn hoa nhỏ, bên trong trồng toàn những cây cối và hoa cỏ quý hiếm, trên mặt đất là những con đường nhỏ rải bằng đá trứng ngỗng, giữa những lùm hoa cỏ lá có những hòn đá gia sơn Thái Hồ, hàng năm vào những lúc giá lạnh nhất, cây hoa mai trong vườn lại lặng lẽ bung nở”.
“Hoa mai?” theo lời tường thuật nhẹ nhàng của cô ta, trước mắt tôi dường như đang dần hiện lên cảnh tượng của sân sau ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ.
“Anh đã nhìn thấy hoa mai nở chưa?”
“Thấy rồi. Tôi nhìn thấy trong sân đằng sau ngôi nhà cổ, đấy vốn dĩ không phải là vườn hoa nhỏ mà cô miêu tả mà chỉ là một cái sân hoang dại thê lương. Miệng giếng cổ nằm chính giữa sân, bên cạnh giếng là một cây hoa mai, vẫn còn một vài cánh hoa rơi rụng trên miệng giếng. Có lẽ là do trùng hợp, tôi đến Hoang thôn đúng vào lúc trời lạnh nhất, cây hoa mai đó dường như đợi tôi đến. Cảm giác đó thật kỳ lạ, trong sân nhỏ hoang vắng của ngôi nhà cổ, chỉ có một miệng giếng và một cây hoa mai, giống như cảnh tượng của một thời khắc khác”.
“Một thời khắc khác?” Cô ta ngẫm nghĩ rồi gật đầu, “Ví von này của anh rất hay, vậy thì hãy nói về Hoang thôn của một thời khắc khác nhé. Đầu năm Dân quốc, ông lớn của gia đình Âu Dương đã ngoài 40 tuổi, nhưng mãi vẫn chưa có người thừa kế. Lúc đó gia đình Âu Dương vốn đơn truyền, một đời chỉ có duy nhất một người con trai, ông lớn cũng không có anh em trai, gia tộc lâu đời này đứng trước nguy cơ đứt đoạn hương khói. Tuy nhiên, việc buôn bán của gia đình Âu Dương buôn may bán đắt, nghiễm nhiên là vua một vùng Hoang thôn, nhưng ông lớn Âu Dương không sao vui vẻ nổi, kết hôn đã bao năm nhưng bà vợ mãi vẫn chưa mang bầu, ngày ngày đầm đìa nước mắt. Để kế tục huyết mạch cho gia tộc Âu Dương, bà vợ cuối cùng đã nghĩ ra một cách: thế vợ”.
“Tôi nhớ ra rồi, tôi đã xem cuốn tiểu thuyết “Vì người mẹ nô lệ” của Nhu Thạch”. Phút chốc, những câu chữ trong sách hiện lên trước mắt tôi, tôi chau mày nhớ lại cuốn tiểu thuyết bi thảm. Những năm Dân quốc, vùng nông thôn phía đông Chiết Giang có một thiếu phụ bất hạnh, chồng bà cớ bạc rượu chè,con trai Xuân Bảo bị bênh 5lau6 ngày không khỏi, người chồng đã vì 100 đồng tiền tây đem vợ cho một lão học giả khát con trai “thuê”. Thiếu phụ sinh hạ cho lão học giả một thằng con trai, đặt tên là Thu Bảo, lão học giả cũng rất thích thiếu phụ này, nhưng vợ cả của lão học giả không cho phép giữ cô ta lại. Thiếu phụ chỉ có thể cô độc trở về với người chồng khiếp nhược, ôm lấy con trai Xuân Bảo đau ốm vật vờ sống qua những đêm dài…
Nhưng tôi vẫn lắc lắc đầu: “Nhưng cái này có liên qua gì tới Hoang thôn?”
Cô ta lạnh lùng thốt ra hai chữ: “Vợ thế”.
“Cô nói cái gì?”
“Truyện ‘Vì người mẹ nô lệ’ nói về phong tục ‘thế vợ’, theo một giá nhất định đem vợ cho người khác thuê, sau khi hết hạn thuê sẽ trả lại vợ cho người chống trước đây. Nhu Thạch là người vùng ven biển đông bộ Chiết Giang, lúc đó ‘thế vợ’ là tập tục thịnh hành tại vùng ven biển Chiết Giang”.
“Hoang thôn cũng là ven biển Chiết Giang, tôi đã hiểu ý cô rồi, năm đó Hoang thôn cũng thịnh hành phong tục ‘thế vợ’ quái ác này sao?”
Cô ta gật đầu: “Đúng, năm đó ông lớn Âu Dương và bà cả vì để tiếp nối hương khói của gia tộc bèn chọn ra một đôi vợ chống nông dân nghèo ở Hoang thôn. Đôi vợ chồng đó có một đứa con trai khỏe mạnh, nhưng người chồng ốm yếu bệnh tật, người vợ trẻ vất vả lo toan mọi việc trong nhà. Ông lớn Âu Dương bỏ ra 80 đồng tiền tây, và người thiếu phụ đó đã trở thành ‘vợ thế’ của ông ấy, thời gian thuê là 3 năm. Người thiếu phụ này được đưa tới ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, ngay đêm bước vào cửa là đã phải hâu hạ chăn gối cho lão gia. ‘Vợ thế’ tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khò, nhưng cũng có chút vốn nhan sắc trời phú, đẹp hơn rất nhiều so với bà cả trát phấn tô son đậm đà, bởi vậy ‘vợ thế’ rất được lão gia yêu thích. Một năm sau, ‘vợ thế’ quả nhiên sinh cho lão gia một cậu con trai, gia tộc Âu Dương rút cuộc cũng đã có người nói dõi”.
“Cổ nhân nói: mẹ hưởng phú quý nhờ con. Bà ‘vợ thế’ này nhất định sẽ được sống những ngày tháng tốt đẹp”.
“Làm gì có chuyện đó, sau khi sinh được con trai, bà cả liền trở mặt với ‘vợ thế’, thường xuyên đánh đập cô ta, lão gia Âu Dương vốn sợ vợ nên cũng không dám bảo vệ ‘vợ thế’. Thời gian thuê là 3 năm, ‘vợ thế’ vẫn còn ở lại trong Tiến Sỹ Đệ, bà rất nhớ chồng và con trai mình, nhưng lão gia lại không cho phép bà gặp mặt họ, ‘vợ thế’ bị nhốt trong sân sau của Tiến Sỹ Đệ, sống cuộc sống chẳng khác gì nô lệ. Bà bắt đầu nguyền rủa ngôi nhà cổ này, nguyền rủa gia tộc Âu Dương đã đem khổ nạn tới cho mình, đã mấy lần bà muốn trốn thoát khỏi Tiến Sỹ Đệ nhưng cuối cùng đều thất bại, lần nào cũng bị đánh đập thương tích đầy mình”.
Nghe đến đây, tôi bất giác thở dài: “Xem ra, bà ta còn thảm hơn cả ‘vợ thế’ trong tiểu thuyết”.
“Đúng vậy, sau đó rút cuộc tới một ngày, bà ta trốn thoát được khỏi Tiến Sỹ Đệ, tìm thấy chồng và con trai trước đây, họ muốn cùng nhau trốn thoát khỏi Hoang thôn, đi tìm tự do ở thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, thế lực gia đình Âu Dương ở Hoang thôn rất lớn mạnh, sao có thể dễ dàng để cho ‘vợ thế’ tháo chạy như vậy. Chẳng mấy chốc, họ đã bị gia đình Âu Dương tóm gọn trên ngọn núi gần đó, người chồng đáng thương bị đánh què chân, còn ‘vợ thế’ bị áp giải về Tiến Sỹ Đệ. Bà cả từ trước vốn đã soi mói ‘vợ thế’, cho rằng ‘vợ thế’ đã không trung thành với gia đình Âu Dương trong thời gian được thuê, Hoang thôn vốn là một vùng đất bảo thủ lạc hậu, tự đặt ra hình phạt dìm xuống giếng để trừng phạt những người đàn bà bất trung.
“Dìm giếng?”
“Mặc cho lão gia Âu Dương có chút không nỡ, nhưng bà cả vốn từ lâu đã mất hết nhân tính, sai người trói chặt tay chân rồi áp giải ‘vợ thế’ tới sân sau, sau đó tự tay mình đẩy bà ta xuống giếng cổ!”
“Trời ơi!”
Đột nhiên, tôi dường như nghe thấy tiếng nước chảy, nước giếng bắn tung tóe lên thành giếng ẩm ướt,sau đó là một màu đen vĩnh cữu… Tôi ôm lấy ngực mình, mãi không thốt nổi nên lời.
“Anh sao thế?” đôi mắt ngời sáng của cô ta kề lại gần tôi chút nữa.
“Không sao cả, chỉ là câu chuyện mà cô kể bi thảm quá, tôi nghe mà thấy tức ngực”.
Cô ta bỗng nhiên cười lạnh lùng mỉa mai: “Anh không phải nhà văn sao? Viết bao nhiêu là truyện kinh dị, bao nhiêu là truyện bi thảm như thế, sao lại sợ cái này chứ?”
“Tôi chẳng hiểu thế nào nữa, chắc tại tôi là người đa sầu đa cảm”. Tôi lắc lắc đầu, cười đau khổ.
“Được rồi, về bí mật của miệng giếng cổ ở Hoang thôn tôi đã nói với anh rồi đấy”.
“Thề sau này thì sao? Miệng giếng đó không bao giờ dùng nữa sao?”
“Giếng dìm chét người thì có người nào dám uống nước trong đó không? Không chỉ là miệng giếng đó, dến cả vườn hoa nhỏ ở sân sau cũng chẳng ai dám đến, người ta truyền nhau, linh hồn chết oan của bà ‘vợ thế’ đó không siêu thoát, ban đêm thường xuyên kêu khóc ở vườn hoa”.
“Thế nên vườn hoa ở sân sau dần dần trở nên hoang tàn, chỉ còn sót lại miệng giếng và cây hoa mai”. Bỗng nhiên, tôi nhớ đến một vật gì đó rất khủng khiếp, “Thảo nào, cây hoa mai đó nở rộ và tươi đẹp một cách khác thường, nguyên nhân là do ‘vợ thế’ dưới đấy giếng”.
Nói đến đây, bản thân tôi cũng có chút sợ hãi.
“Đừng có đa sầu đa cảm quá, bây giờ anh đã tin tôi rồi chứ?”
“Đây chính là bí mật của Hoang thôn?”
“Đường nhiên không phải, đây chỉ là một phần nhỏ của bí mật. Đối với những người như chúng ta mà nói, Hoang thôn vĩnh viễn là một câu đố”.
“Ý cô bảo: Hoang thôn vẫn còn có rất nhiều bí mât quan trọng khác nữa?”
Cô ta trịnh trọng gật đầu: “Anh vĩnh viễn không bao giờ có thể tưởng tượng nổi, bí mật của Hoang thôn đáng sợ tới mức nào”.
Tôi bán tín bán nghi hỏi: “Thật sự đáng sợ thế nào?”
Cô ta nhìn chằm chằm vào mắt
t tôi một lúc, đột nhiên đứng phát dậy: “Xin lỗi, tôi phải đi đây”.
“Nhưng cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi cơ mà?” Tôi có chút bất ngờ.
“Đợi lần sau nhé, tôi sẽ trả lời tất cả các câu hỏi của anh”. Cô ta miệng nói còn chân thì đã bước ra tới cửa quán trà.
“Hôm nay thật sự muộn quá rồi, tôi phải về nhà đây”.
Trên đường Thiểm Tây Nam, cách đó không xa, đường Hoài Hải vẫn đen hoa sáng trưng, chiếu sáng khuôn mặt của Nhiếp Tiểu Sảnh.
Rút cuộc, tôi đã không kìm nén được gọi một tiếng: “Tiểu Sảnh”.
Cô ta quay đầu lại, nhìn tôi bằng ánh mắt hết sức kỳ quái.
“Xin lỗi, tôi có thể gọi cô như vậy không?”
Cô ấy ngừng lại một lúc lâu sau mới nói: “Đương nhiên có thể”.
“Cô sống ở đâu? Tôi đưa cô về nhé”.
“Đừng, nhất định không được…”, lời nói của cô ta bỗng nhiên đứt đoạn, hình như là nhớ ra điều gì đó, “Nhớ kĩ, tối nay không được nghe điện thoại”.
“Ý cô là gì?”
Nhưng Tiểu Sảnh không trả lời, cô vội vàng len vào dòng người đang đi trên phố, chẳng mấy chốc chìm nghỉm giữa nam thanh nữ tú trên đường Hoài Hải.
Tôi không thể nhìn thấy cô nữa, một mình đứng ven đường, cơn gió đêm lành lạnh thổi qua bất giác khiến tôi nhớ lại câu chuyện “vợ thế”.
Trên đường về nhà, tôi hồi tưởng đi hồi tưởng lại câu nói của Tiểu Sảnh, còn cả hình ảnh của miệng giếng đó nữa. Không, có lẽ đấy chỉ là do cô ấy tưởng tượng ra, có thể là do cô ta sau khi xem xong truyện ngắn Hoang thôn của tôi đã liên tưởng tới tiểu thuyết của Nhu Thạch rồi đem tình tiết của “Vì người mẹ nô lệ” đặt vào hoàn cảnh của Hoang thôn và Tiến Sỹ Đệ, thêu dệt nên câu chuyện đáng sợ về Hoang thôn và “vợ thế”.
Nhưng miệng giếng đó thật sự tồn tại mà? Còn cả cây hoa mai đó nữa, tôi chưa từng nói với bất kỳ ai. Hơn nữa, ánh mắt cô ta nói cho tôi biết, từng câu cô ta nói đều rất chân thật, dáng vẻ của cô ấy thật sự không giống kẻ quấy rối.
Không, tôi không nên bị vẻ ngoài của cô ta lừa dối, có trời mới biết được cô ta có thể nói những gì?
Cỏ đường suy nghĩ mông lung, cuối cùng cũng về được đến nhà. Đã không còn sớm nữa, tôi thấy mình vô cùng mệt mỏi, chưa kịp bật máy tính tôi đã đi ngủ.
Dù là ngủ trên giường nhưng tôi vẫn cảm thấy thấp thỏm bất an, trằn trọc trở mình mãi vẫn chưa ngủ được. Không biết bao lâu saum tôi thấy mình càng lúc càng khó chịu, trong lòng âm thầm đếm cừu.
Một con cừu, hai con cừu… một trăm con cừu…
Điện thoại đột ngột đổ chuông!
Tôi theo phản xã bật dậy khỏi giường, trong đêm tối tôi mở to mắt, hình như nhìn thấy vật gì đó. Lúc này tôi mới định thần lại, trong tức khắc tất cả số cừu đều biến mất, chỉ còn lại tiếng chuông điện thoại vang vọng bên tai.
“Đêm nay không được nghe điện thoại”.
Đột nhiên, tôi nhớ lại câu nói cuối cùng của cô ta trước khi tạm biệt, chắc không phải là điện thoại của cô ta gọi tới đâu nhỉ?
Nghĩ tới đây, tôi lập tức nghe máy: “Tiểu Sảnh, là cô à?”
Nhưng tôi không thể ngờ tới, trong điện thoại truyền lại một giọng nam.
“Không, tôi là Hoắc Cường”.
“Hoắc Cường?” là chàng sinh viên tới Hoang thôn, nghe thấy cái tên này, bản nửa tim tôi cũng lập tức lạnh toát, nhưng tôi vẫn cố ý trấn tĩnh hỏi: “Các cậu ở đâu?”
“Bọn tôi đã về Thượng Hải rồi?”
“Về sớm thế sao?”
Tin này khiến tôi vô cùng bất ngờ, họ đã trở về Thượng Hải rồi, tôi đáng nhẽ ra phải cảm thấy vui mừng thay họ mới đúng, nhưng tôi lại không thốt ra được bất cứ câu hỏi vui vẻ nào.
“Đúng thế, chúng tôi đang xuống xe ở bên xe khách đường Hán Trung, bây giờ chuẩn bị ngồi xe về trường học”.
Tôi nghe thấy có rất nhiều tiếng còi xe trong điện thoại, chắc là đang ở bến xe thật.
“Bốn người các cậu đều không có chuyện gì chứ?”
Hoắc Cường trầm ngâm một lúc mới chậm rãi nói: “Không… không việc gì, mọi người đều rất bình an”.
Trái tim treo ngược rút cuộc cũng được hạ xuống, tôi thốt ra một câu mà nhẹ cả người: “Bình an thì tốt rồi, tôi đã khuyên các cậu về sớm. Được rồi, bây giờ về trường nhanh đi”.
Đối phương im lặng, tôi chỉ nghe thấy tiếng người và tiếng xe cộ ồn ào.
Tim tôi đột nhiên co thắt lại: “Alô, các cậu sao thế? Nói gì đi chứ?”
Nhưng trong điện thoại vẫn không có hồi âm, tôi chờ đợi mấy phút rồi ngắt máy.
Kỳ lạ, sao đằng sau lưng lại chảy bao nhiêu là mồ hôi?
Trong bóng tối, tôi mò mẫm bật đèn, bảy giờ là 12 giờ đêm. Tức là bốn sinh viên đó đã đi cả đêm từ Hoang thôn để về Thượng Hải.
Tôi thở một hơi thật dài, bỗng nhiên nhớ tới Tiểu Sảnh, cô ta nói đêm nay không được nghe điện thoại, chắc là nói về cú điện thoại này, nhưng tại sao Tiểu Sảnh lại biết được?
Tôi lắc lắc đầu, thật là không cách nào có thể giải thích nổi. Tôi lại tắt đèn nằm xuống.
Cầu cho tất cả bọn họ đều bình an.
Xem tiếp:Quán trọ hoang thôn