Ma trả ơn người
Ma trả ơn người
Trước năm 1975, bất cứ ai sống ở Sài Gòn đều biết đến nghĩ trang Đô Thành, một nghĩa trang không lấy làm gì to lớn nhưng lại mang vẻ âm u, hoang dã, với hàng chục cây điệp, cây gòn khá lớn được trồng lộn xộn không theo lớp lang nào trải khắp nghĩa trang. Có cây mọc trơ vơ, đứng đơn độc ở một khoảng trống trong nghĩa trang, ngược lại có chỗ, với 5, 6 cây chen chúc nhau, cành lá xen nhau vươn lên như muốn tranh nhau hứng lấy ánh mặt trời. Dưới mặt đất những nấm mồ cũ kỹ, vỡ bẻ chen vào những nấm mồ mới đắp đất hay gạch thô sơ, nghèo nàn cũng chẳng có hàng lối nào cả. Cỏ dại mọc không đến lỗi um tùm nhưng xũng lòa xòa đủ che kín những ngôi mộ thấp lè tè, không dễ cho bất cứ ai muốn tìm một lối đi xen giữa những ngôi mộ nằm ngổn ngang khắp nghĩa trang.
Vào mùa nắng, nền đất khô ráo nên cũng có một vài đứa trẻ sống ở vùng lân cận rủ nhau vào nghĩa trang chơi đùa, bắt dế, đá banh… làm cho nới đây có chút sinh khí, mất đi phần nào cái vẻ thê lương ma quái. Nhưng dưới những trận mưa dù to hay nhỏ nghĩa trang trở nên hoang vắng. Cỏ dại được dịp lớn mạnh, lòa xòa, nằm ngả nghiêng trên mặt đất nhơ nhớp bùn lầy hay phủ trùm lấy những ngôi mộ nhem nhuốc. Phía trên cao, cành từ những gốc cây to đều không bị gió mưa làm gẫy đổ thì cũng bị rũ xuống, không chịu được sức nặng của nước mưa đu đưa mỗi khi có gió thổi. Vào ban đêm, nhất là những buổi trời mưa, dưới ánh đèn điện lờ mờ yếu ớt phát ra từ những cây cột đèn bằng gỗ thông sơ trồng ở vài nơi đây trở nên âm u hơn. Thêm vào đó những tiếng rũ rỉa của ếch nhái, côn trùng pha với những tiếng xột xoạt của những con chuột cống, ghẻ lở, trụi lông to hơn bắp chân lờ đờ chậm chạp len lách dưới lùm cây, bãi cỏ kiếm ăn… Tất cả hòa trộn với bóng tối tạo cho khu nghĩa trang về đêm được bao trùm trong khung cảnh ghê rợn. Cái ghê rợn nhuốm đày vẻ ma quái, cho dù bất cứ ai tự nhận là gan dạ, không biết sợ ma cũng không tránh được cảm giác rờn rợn da gà khi có việc gì bất đắc dĩ phải vào nghĩa trang lúc ban đêm.
Có lẽ toàn nghĩa trang chỉ có 2 nơi được coi là cao ráo, thường được người ta sử dụng nhất. Đó là con đường đá ong rất chắc chắn, cao hơn hẳn mặt đất, dẫn từ cổng bên ngoài đến căn nhà xác ở gần trung tâm của nghĩa trang. Con đường này khá rộng, dư đủ cho bất cứ chiếc ô tô lớn, nhỏ nào từ bênh viện hay cơ quan nào của thành phố chở xác người chết đến nghĩa trang.
Cổng nghĩa trang là hai trụ xây bằng gạch đã xiêu vạo quét màu vàng đất nhưng đã bị hoen ố với rong rêu, nắng mưa. Hai cánh cổng bằng sắt rỉ, màu sơn loang lổ, đã hư hỏng từ lâu, không còn đóng mở được nữa, luôn luôn mở rộng vào phía nghĩa trang. Phía trên của cổng một tấm bảng bằng sắt, dù vẫn còn tí ngay ngắn nhờ đính chắc vào hai cây sắt cắm sâu vào trụ cổng, nhưng trên mặt hai tấm bảng cũng chỉ còn dấu tích một hàng chữ mà chẳng ai đọc được ý nghĩa vì đã bị xóa lem nhem với màu nâu hoen rỉ.
Nhà xác của nghĩa trang là một căn nhà ngói thấp lè tè, tường gạch, quét vôi màu vàng đất nhưng cũng như hai trụ của cổng đã bị ố màu đên vì mưa nắng. Mái ngói chưa đến nỗi nghiêng ngả nhưng màu đỏ của ngói gần như biến mất bởi rêu xanh đen bao phủ. Nhìn thoáng qua người ta cảm tưởng nó mang dáng dấp của một ngôi chùa cổ hoang phế nhiều năm, không được chăm sóc hơn là ngôi nhà chứa xác của một thành phố lớn mà gần như hàng ngày đều tiếp nhận những xác người chết vô thừa nhận. Từ cuối con đường khô ráo đá đỏ, muốn bước vào nhà xác phải đi qua một bậc tam cấp để đến trước khung cảu ra vào rất rộng của căn nhà. hai cánh cửa to lớn thường được đóng kín, nó chỉ được mở ra mỗi khi người ta mang xác người chết vào nhà xác. Căn nhà rộng nhưng không được chia ngăn ra từng phòng như những căn nhà thông thường. Nó đơn giản thông thoáng như một đình làng ở làng quê miền Bắc. Nhìn vào sự sắp xếp trong căn nhà người ta có thể chia ra làm 3 phần rõ rệt.
Phần giữa nhà rộng nhất để có duy nhất một chiếc bàn rất lớn nhưng thấp khoảng sáu, bảy mươi phân xây bằng xi-măng, lát gạch men màu trắng. Đây cũng chính là nơi người ta để xác người chết chờ đem đi chôn.
Phần bên trái với một hàng kệ thấp nhưng chắc chắn được đóng bằng những thanh gỗ màu nâu sậm. Trên kệ gỗ xếp 4 quan tài rỗng, bằng gỗ thông khá mỏng, sơn màu đỏ sơ sài, không hoa văn. Nhìn thoáng qua cũng biết những chiếc quan tài này thuộc loại kém phẩm chất, rẻ tiền dành cho việc bố thí.
Phần bên phải hẹp hơn, ở một góc nhà kê cái bàn và hai cái ghế cũ kĩ, lem luốc đã hóa đen. trên mặt bàn, một cuốn sổ xếp ngay ngắn bên cạnh một chồng hồ sơ liên quan đến công việc của nghĩa trang. Cạnh chiếc bàn, sát tường có một chõng tre, trên trõng trải một chiếc chiếu cói cũ kĩ, màu đỏ bạc màu, mép chiếu lơ thơ những sợi dây gai sờn rách. Phía trên treo luộm thuộm một chiếc màn muỗi, dây màn mắc cầu thả vào những chiếc đinh đóng trên tường căn nhà. Đây có lẽ là nơi ngủ tạm cảu người coi sóc, phục dịch của nghĩa trang.
Ở góc nghĩa trang, sát với con đường có một căn nhà nhỏ lợp mái tôn. Đó là nơi cư ngụ cảu gia đình ông Khoa, nhân viên chính có trách nhiệm trông coi và điều hành hoạt động cuat nghĩa trang. Dười quyền ông KHoa có thêm 2 người nhân viêc khác giúp việc, họ cùng với ông chia phiên nhau ngủ tại nhà xác để phòng ngừa kẻ gian có dịp đêm hôm phá phách. Thông thường, mỗi khi xác người chết được chở đến nghĩa trang, ông Khoa là người ký nhận hồ sơ cảu kẻ xấu số.Trong đó ghi rõ tất cả những dấu tích, nhận dạng, tình trạng xác chết kèm theo lời ghi chú, xác nhận của bác sĩ hay cơ quan có thẩm quyền liên quan đến cái chết của nạn nhân. Sau khi làm thủ tục tiếp nhận xác chết, ông Khoa sai 2 người nhân viên lo việc tấm liệm, đào huyệt và cuối cùng đem đi chôn.
Dù đã làm công việc quen thuộc và nhàm chán đó hơn chục năm nay, nhưng ông Khoa vẫn luôn luôn nghĩ rằng những xác người chết được chở đến cho ông đều là những kẻ bất hạnh, đáng thương. Họ đã phải chết trong đau đớn hay chết bờ chết bụi, chết không thân nhân, nhiều khi không tên tuổi dưới dạng chết vô thừa nhận. Với suy nghĩ như vậy ông Khoa luôn dành cho họ những nghi leexduf đơn giản nhưng vẫn không kém trang nghiêm. Với bất kể xác chết nào, mỗi khhi niệm xác vào quan tài cũng như lúc đem quan tài đi chôn, ông Khoa cùng với 2 nhân viên luôn luôn đốt cho họ một cây nến, thắp vài nén hương rồi kính cẩn khấn khứa và kính chúc linh hồn họ được an bình, nhẹ nhàng sang thế giới bên kia và sớm được siêu thoát.
Hằng năm vào dịp Tết âm lịch, ông Khoa thường nghỉ việc khoảng 2 tuần lễ để dẫn cả gia đình về quê ăn tết với họ hàng và cúng bái tổ tiên. Trong những lần nghỉ đó ông thường nhờ một trong hai nhân viêc thay ông lo việc điều hành nghĩa trang. nhưng mấy năm gần đây, Đức, con trai trưởng của ông đã khôn lớn, đang là sinh viên đại họ. Cảm thông sự bận rộn của gia đình hai người nhân viên vào dịp Tết, nen ông không muốn làm phiền họ thêm nữa. Ông đã nhờ người con trai cáng đáng công việc của nghĩa trang khi ông vắng mặt.
Năm nay cũng vậy, Đức thay bố tiếp nhận những xác chết vô thừa nhận của thành phố gửi đến, rồi cùng hai người nhân viên lo việc tẩm liệm và an táng. Dĩ nhiên Đức cũng không quên việc tháp hương cúng vái linh hồn kẻ bất hạnh như bố căn dặn. Một lần vào khoảng giữa trưa, một chiếc xe cứu thương từ phòng lạnh của bệnh viện thành phố chở đến 2 xác chết. Một xác thanh niên có lẽ 17, 18 tuổi, không giấy tờ tùy thân. Không biết lý do gì mà anh ta bị đánh bể sọ não, xác được tìm thấy ở một góc tối của một con hẻm nhỏ trong thành phố.
Xác thứ hai, là một thiếu nữ khoảng 19, 20 tuổi, mặc một bộ quần áo bà ba bằng vải thô màu nâu xậm bạc màu. Qua trang phục của nạn nhân, có thể đoán được cô gái xuất thân từ miền quê nghèo nào đó của miền Đồng bằng sông Cửu Long. hồ sơ ghi chú cô gái bị hung thủ hiếp dâm trước khhi dùng dây lưng thắt cổ cô ta cho đén chết, rồi mới liệng xác cô ta xuống dông để phi tang, cố ý làm lạc hướng điều tra vì nghĩ cô gái chết đuối do tự tử hay bị té ngã xuống sông mà chết. Mặc dù đã chết đã lâu, màu da mặt đã tái nhợt, cơ thể thâm tím. Nhưng khuôn mặt cô gái bất hạnh vẫn bầu bĩnh, vành môi mỏng tô điểm cho cái miệng với hai hàm răng đều đặn, rất hòa hợp với sóng mũi dọc dừa khá cao. Chẳng ai phủ nhận được nạn nhân là một cô gái khá đẹp, duyên dáng khi còn sống
Mãi đến chiều tối ngày hôm sau, Đức và hai nhân viên mới lo xong việc tẩm liệm, đào huyệt và chôn cất xong hai xác chết. Cảm hông với bận rộn của hai người nhân viên trong những ngày tết, Đức bằng lòng nhủ lại trong nhà xác. Vào khoảng giữa đêm, một vài tiến động xột xoạt như tiếng chân người đi đi, lại lại từ bên ngoài căn nhà xác vọng vào đã làm Đức giật mình thức giắc. Dù có tí chút lạ lùng nhưng sự mệt mỏi của suốt một này vừa qua cho việc đào 2 lỗ huyệt để chôn xác người vẫn còn đầy ắp trên cơ thể, Đức cũng chẳng muốn thắc mắc gì thêm. Anh trở mình tìm sự thoải mái mong tìm lại giấc ngủ tiếp theo. Nhưng tiếng động càng lúc càng to, thỉnh thoảng lại có vài tiếng thở dài than khóc của phụ nữ đã cho Đức có phần bực bội nhưng cũng kích thích sự tò mò của anh hơn. Đức hoàn toàn không tin chuyện ma quỷ. Với anh chết là hết, sự biến đổi vật chất hoàn toàn có tính vật lý, chẳng có sự linh thiêng vô hình nào tác đọng vào nó cả. Ngay như ba của Đức, ông Khoa đã mấy chục năm tiếp xúc với xác chết ở cái nghĩ trang âm u này, nhưng chưa bao giờ anh nghe thấy ông đề cập đến chuyện ma quái hiện hình phá rối người sống cả!
Với cái nhìn khoa học thiên hẳn về vật chất như vậy, Đức cho rằng tiếng động bên ngoài căn nhà xác vọng vào chắc chắn nó đã phát ra từ một cô gái hay phụ nữ lang thang, hư đón nào đó. Có thể cô ta đang gặp chuyện bất như ý về một vấn đè nào đó, như bị tình lang ruồng bỏ nên buông chán, không muốn về nhà, rồi lang thang, mong tìm một nơi thanh vắng để than khóc cho quên nỗi sầu mà thôi. Đức bực mình, đưa bàn tay gõ mạnh vào thành bức tường căn nhà, phát ra vài tiếng ho khan, cố ý tạo ra vài tiếng động mong cho kẻ phá rối biết đang có người theo dõi mà bỏ đi.
Nhưng hành động của Đức không làm cho cô gái im lặng rời xa mà cô ta còn khóc to tiếng hơn, bước chân đến gần căn nhà xác hơn. Đến lúc này Đức không thể chịu được nữa, ngồi bật dậy, thò chân xuống giường tìm vội, xỏ chân vào đôi dép rồi đi nhanh đến mở cánh cửa. Chẳng cần biết người khóc than là ai, Đức xẵng giọng hỏi:
- Đêm khuya rồi, muốn đến đây phá phách nhười ta sao? Đi về đi!
Nói xong Đức mới ngước mắt nhìn. Dưới ánh trăng lập lờ, Đức giạt mình, khi nhìn thấy một cô gái giống y hệt, không tí một khác biệt với cô gái bị giết chết mà anh với hai người nhân viên vừa chôn cất buổi chiều qua. Toàn cơ thể mình nổi da gà cùng với một dòng điện rần rần lan tỏa ra khắp châu thân làm cho Đức không đứng vững, muốn quỵ xuống ngay ngưỡng cửa của căn nhà xác. Cũng cái áo nâu xậm bạc màu, nước da trắng ngà, hơi thâm. Khuôn mặt bầu bĩnh, hàm răng trắng đều đặn trong vẻ đẹp duyên dáng của người thiếu phụ miền Tây. CCo ta đang đứng đươi gốc cây đeệp gần sát với mái nhà xác, hướng cặp mắt buồn bã nhìn Đức. Không biết có phải vì sự rung động của tàng cây điệp làm cho ánh trăng hòa trộn với ánh đền điện lập lòe đã khiến cho thân mình cô gái đang bập bồng theo làn gió.
Sau vài phút ngỡ ngàng, hoảng sợ với sự việc rất khó tin nhưng lại đang hiển hiện trước mắt, Đức vẫn cố kéo lấy lòng tin của mình vào khoa học, trong suy nghĩ của anh không có chuyện ma quái hiện hình. Có lẽ đây chỉ là một sản phẩm của tưởng tượng mà ra. Với suy nghĩ đó, Đức đã phần nào kéo mình ra khỏi nỗi sợ hãi. Cố gắng làm ra vẻ bạo dạn hơn, anh chau mày hỏi lớn:
- Cô là ai? Tại sao giữa đêm đến đây khóc than?
Cô gái chậm chạp như lướt trên mặt đất đến gần Đức, đôi mắt buồn rầu còn ướt lệ vẫn hướng về Đức, với giọng buồn rầu hỏi:
- Anh thực sự đã quên em sao? Không lẽ anh không nhớ xác chết mà anh vừa chôn buổi chiều hôm trước hay sao? Em là hồn ma hiện về tha khóc vì đã bị kẻ khốn kiếp sát hại, dù đã chết mà vẫn mang theo bao nhiêu điều oan ức, thù hạn đây.
Nghe cô gái nói, lòng tin về khoa học đã hoàn toàn biến mất trong trí não Đức, nỗi sợ hãi lại trở về với Đức, đôi chân run nhẹ, anh đưa tay cầm lấy cánh cửa căn nhà làm điểm tựa cho thân mình không bị quỵ xuống. Giương cặp mắt sợ hãi lên nhìn hồn ma cô gái, nghĩ rằng cô gái hiện về để hãm hại mình, với giọng run run anh nói:
- Vì chết oan ức nên cô hiện về đây than khóc, nhưng tôi hoàn toàn vô can trong cái chết của cô, tôi chỉ là người lo việc chôn cất cô mà thôi, mong cô thông hiểu mà rời xa, đừng hiện về phá rồi hãm hại chúng tôi nữa.
Hồm ma cô gái hình như hiểu được ý nghĩ của Đức, lắc nhẹ đầu ra ý phủ nhạn rồi giọng nói êm đềm, cô trả lời:
- Nhờ anh xác thân em đã được chôn cất đàng hoàng, việc anh làm là một việc tích đức, không đội ơn anh thì thôi chứ làm sao mà oán trách anh được? Em bị kẻ tàn ác, táng tận lương tâm hãm hại chết trong oan ức, linh hồn lang thang không nơi lương tựa. Kẻ hãm hại em vẫn ngang nhiên sống ngoài vòng pháp luật. ba mẹ em đã già nua, vẫn mỏi mắt ngóng trông em trở về, không hè biết em đã bị giết chết mà hương khói để cho hồn em sớm được siêu thoát. Hiện hồn về đây cũng chỉ nhờ anh vui lòng giúp đỡ. Trước là báo tin cho gia đình em mang xác em về quê hương chôn cất để không phải làm con ma đói không nơi nương tựa chốn âm ty. Sau là tố cáo với chính quyền để kẻ tán tận lương tâm đã hãm hại em phải đền tội.
Rồi hồn ma cô gái cho biết cô tên là Yến, chị cả của một gia đình đông con, nghèo khó ở làng quê thuộc tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Hàng ngày nhìn thấy ba mẹ và các em đói khổ, Yến đã dại dột nghe lời một bạn trai thời thơ ấu rủ lên Sài Gòn kiếm tiền mong gửi về giúp đỡ gia đình. người bạn hứa sẽ giúp đỡ, tìm việc, cưu mang Yến trong thời gian đầu tiên khó khăn. Nhưng khi lên Sài Gòn, Yến mới biết anh ta chỉ là một tên ma cô, đâm thuê chém mướn mà thôi. Ngay hôm đầu tiên lên Sài Gòn anh ta đã dùng vũ lực cưỡng hiếp Yến. Yến phản kháng và có ý định tố cáo với chính quyền, nên đã bị hắn giết chết, lấy hết giấy tờ, tiền bạc và quăng xác cô ta xuống sông dể phi tang. Cha mẹ Yến ở quê, vẫn đinh ninh rằng con gái được người bạn tốt giúp đỡ, vẫn chưa biết Yến đã bị giết chết nên vẫn bình thản chờ đợi.
nghe xong câu chuyện đau lòng mang đến cái chết tức tưởi của Yến. Đức hứa sẽ tìm cách liên lạc báo tin ngay cho gia đình cô ta đẻ lo việc mang xác cô ta về quê hương thờ cúng cho linh hồn không phải lang thang nơi âm giới và chóng được siêu thoát. Đức cũng hứa ngay sáng sớm ngày mai sẽ đến cơ quan công quyền tố cáo hành vi giết người, hiếp dâm của tên tội phạm để đưa ra pháp luật cho hắn đền tooij. Với lời hứa giúp đỡ của Đức, hồn ma cô gái đưa mắt nhìn Đức như cảm ơn rồi xoay người, bóng hình nhạt mờ dần rồi biến mất.
Với sự tích cực giúp đỡ của Đức, gia đình cô gái đã đến nghĩa trang nhận diện và cải táng xác thân Yến mang về quê chôn cất, thờ cúng như hồn cô ta mong muốn. Chỉ vài ngày sau kẻ giết người bị bắt với đầy đủ những di vật của Yến từ nơi cư ngụ của hắn. Do quen thói, trong một lần đi cướp hắnbiị tóm. Trong quá trình điều tra, nhà chức trách phát hiện tội ác mà hắn gây ra. Cuối cùng với những chứng cứ rõ ràng, cơ quan điều tra đã bắt nghi can phải cui đầu nhận tội. Hắn đã giết Yến và tìm cách phi tang chỉ vì lo sợ cô ta tố cáo tội các của hắn với chính quyền. Không lâu sau đó kẻ giết người bị đem ra tòa với bản án chung thân.
Sau hiện tượng hồn ma hiện hình đó, cuộc sống của Đức và gia đình cũng như công việc làm của ông Khoa và hai người nhân viên trong nghĩa trang vẫn bình thường. Tuy nhiên toàn thể gia đình Đức cũng như hai người nhân viên của nghĩa trang đã thay đổi hẳn cái nhìn về sự sống của con người. Mọi người tin chắc rằng sau khi chết, xác thân của con người trở về với cát bụi, nhưng vãn còn lưu lại trên thế gian cái gì đó. nó có vẻ mơ hồ nhưng khi gặp tác động vô hình khó giải thích làm cho nó biến chuyển và thể hiện ra dưới một dạng thức đôi khi mang tính cách thiêng liêng mà người ta gọi là ma, là linh hồn hiện về sau khi chết.
Rồi bẵng đi khoảng 5 năm trời. Đức cũng đã tốt nghiệp đại họ, kiếm được việc làm ngay trong thành phố rồi lập gia đình, sửa soạn có con đầu lòng. Ông bà Khoa,ba mẹ của Đức vì muốn được sống gần con cháu đã xin được một thửa đất nhỏ, trong nghĩa trang ngay bên cạnh căn nhà của mình để xây cho vợ chồng Đức một căn nhà riêng biệt.
Vào một đêm, cả nhà đã yên ngủ. Dưới cái nóng ẩm, khó chịu của Sài Gòn vào tháng 7, lại thêm vài ly trà đậm đã làm Đức trằn trọc, khó ngủ. Anh nhẹ nhàng thức dậy ra ngồi hóng mát ở chiếc ghế dài kê trên bờ hiên của căn nhà. Vài làn gió thổi hiu hiu đã làm cho Đức lơ mơ sắp sửađi vào giấc ngủ. Thình lình vài tiếng động nhẹ rồi anh chợt thấy hiinhf như có ai đó đập nhẹ lên vai mình. Đứco ở mắt, thấy một người phụ nữ, quần áo chỉnh tề với nón mũ khác lạ, khá lòe loẹt. Nhìn thoángqua , bà ta có tí nào giống giống người đóng tuồng trên sân khấu.
nhìn đôi mắt ngạc nhiên trông vẻ còn ngái ngủ của Đức, người đàn bà thân thiện cất tiếng hỏi:
- Anh Đức còn nhớ tôi là ai không?
Đức đưa tay lên dụi mắt như muốn xua đi cơn buồn ngủ. Cau mày với vẻ ngạc nhiên nhìn lại bà ta chăm chú rồi lắc đầu nhè nhẹ ra chiều không hề quen biết. Người đàn bà cũng chẳng đợi Đức trả lờ, bà ta đã nói tiếp:
- Tôi là Yến, cô gái ngày xưa bị hiếp dâm và giết chết. người đã nhờ anh giúp đỡ báo tin cho ba mẹ tôi đem xác về quê nhà chôn cất, chắc anh còn nhớchứ?
Chỉ với lời giải thích ngắn ngủi đó đã làm Đức run sợ. Hình ảnh của hồn ma cô gái bị giết tàn bạo 5 năm trước trở về trong trí nhớ của anh. Lần này anh không còn run sợ đến nỗi muốn ngất xỉu, đứng không muốn vững như lần trước. Nhưng sợ hãi dù ít hơn cùng với ngạc nhiên tột cùng đã làman h đứng lặng, tim đập dồn dập, giương cặp mắt lên nhìn người thiếu phụ. Cuối cùng anh cũng xác nhận được bóng dáng tương đồng của hồn ma hiện tại và hồn ma của cô gái bất hạnh 5 năm về trước. Cũng vậy, anh cũng xác nhận ngay một điều rất thực, đó là anh đang trực diện, nói chuyện với hồn ma, không phải là con người còn đang sống.
Hình như hồn ma cũng chẳng chú ý đến nét mặt ngạc nhiên, chết lặng của Đức. Với giọng chậm rãi nhưng rõ ràng hồn ma thiếu phụ nói:
- Tôi hiện đang làm việc cho âm giới. Vẫn nhớ đến lòng tốt của anh, nhờ anh giúp đỡ mà thân xác tôi đã được gia đình mang về quê hương chôn cất, linh hồn tôi đã không phải vất vưởng cùng với đàn ma đói, không nhà chốn âm cung. Tôi cũng cảm động với việc làm đầy nhân đức của cha anh trong suốt mấy chục năm qua. nhờ ông mà biết bao nhiêu người bất hạn, chết bờ bụi không người thân thiết đã được chôn cất, khói hương đàng hoàng. Hôm nay tôi hiện về đẻ báo tin cho anh biết một việc không may đang đến gần với cha của anh. Với việc làm của mình nơi âm giới, tôi hy vingj sẽ làm được điều gì đó giúp đỡ cha anh thoát khỏi số phận như để trả được phần nào lòng tốt của gia đình anh.
Nghe hồn ma nói, Đức lo lắng:
- Có chuyện gì xảy ra cho ba tôi? Nếu là chuyện không may cho ba tôi, mong cô cố gắng giúp đỡ.
Hồn ma cô gái trả lời:
- Theo số phận thì 3 ngày nữa, đúng vào đầu giờ Sửu (3 giờ sáng) ba của anh sẽ bị chết bất đắ kì tử. Tôi sẽ phá lệ giúp ba anh thoát nạn, tuy nhiên anh nên tuyệt đối kín đáo, vì việc của tôi đã đi ngược lại thiên cơ.
Rồi hồn ma cô gái nói gia đình Đức làm một người nộm giống hệt ba của Đức, đúng vài đêm ngày thứ 3 để nằm trên chiếc giường ngủ của ông Khoa, còn ông Khoa phải mặc một chiếc áo choàng màu đỏ có đính hình bát quái, giữ kín đáo, tuyệt đối im lặng đến nằm dưới gầm giường, đúng khớp với hình nhân trên giường. Chờ đợi cho hiện tượng xảy ra đâu đó, ba của anh mới được ra khỏi gầm giường. Công việc kế tiếp của gia đình anh là phải làm ma chay than khóc như ba anh chết thật. Ba của anh phải rời nhà đến nơi khác, tuyệt đối không được bén mảng về nhà trong suốt 49 ngày. Qua khỏi 49 ngày thì mọi chuyện được coi là êm xuôi. Tuổi thọ của ba anh sẽ được kéo dài thêm một cung của thiên bàn (12 năm). Hồn ma cũng cho biết, ông Khoa đã làm nhiều năm chôn cất các xác chết vô thừa nhận, một việc làm rất nhân đức đã được truyền tặng cho con cháu thụ hưởng.
Với sự việc xảy ra vừa qua, Đức không nghi ngờ gì nữa. Bàn luận với gia đình, bắt tay ngay vào việc làm theo lời chỉ dẫn của hồn ma cô gái căn dặn. ngay buổi chiều tối ngày thứ 3, ông Khoa kêu nhức đầu và muốn đi ngủ. Gia đình ông cho ông mặc một cái áo choàng đỏ, in hình bát quái rồi để cho ông nằm ngủ ngay dưới gàm giường. Cả gia đình săn sóc hình nhân trên giường, ra vẻ như săn sóc ông Khoa. Thời gian chầm chậm đi qua, chuông đồng hồ vừa mới chỉ đúng 3 giwof, mọi người thaongs thấy một bóng ma mờ nhạt lướt nhanh qua cái giường mà hình nhân đang nằm rồi biến mất. Như đã xếp dặt, ông Khoa vội vàng ra hỏi gầm giường và rời xa vợ con đến ở nhờ một gia đình khác ở một tỉnh lỵ xa Sài Gòn.
Rồi vợ con ông Khoa khóc than, niệm hình nhân vào quan tài, tổ chức đám tang như thật. Tất cả đều yên lành, trôi suốt, lúc đó ông Khoa mới trở về nhà.
Đúng như hồn ma nói, 12 năm sau ông Khoa bị bệnh mà chết. Con cháu ông đều ngoan ngoãn, thanhd danh khá giả. Dù sống giữa thời tao loạn mà không một ai vướng vào vận hạn vì bom đạn, chiến tranh.
Hết.
Xem tiếp:Ma trả ơn người